Bản giải trình các vấn đề báo chí thông tin về Nông Trường Sông Hậu

Facebook Google+ Email

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


 


TP. Hồ Chí Minh,  ngày 12  tháng 07 năm 2008


 


BẢN GIẢI TRÌNH CÁC VẤN ĐỀ BÁO CHÍ


THÔNG TIN VỀ NÔNG TRƯỜNG SÔNG HẬU


 


Kính gởi:        CÁC CƠ QUAN BÁO CHÍ TW VÀ ĐỊA PHƯƠNG


 


Thời gian qua, mới đây nhất là các ngày từ 4 đến 12 tháng 7 năm 2008, các cơ quan báo chí TW và địa phương đã lần lượt đưa tin, viết bài về Nông trường Sông Hậu (NTSH) xung quanh vấn đề “Bắt tạm giam 3 cán bộ của NTSH ”; cùng những vấn đề khác được coi là “cố ý làm trái” tại NTSH, dựa trên phát ngôn của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức vụ (PC15) - Công an TP. Cần Thơ; tựu trung lại, có 8 vấn đề, chúng tôi lần lượt nêu ra và bước đầu xin giải trình với quý báo như sau:


 


1. Vấn đề thứ nhất: Báo chí nêu: “Nông trường lập “quỹ đen” trái phép 29 tỷ đồng, trong đó thời giám đốc cũ (1994 - 2000) là 20 tỷ đồng; thời giám đốc kế nhiệm (2001 - 2007) là 9 tỷ đồng…”


Chúng tôi xin giải trình như sau: 


- Con số 29 tỷ đồng: Cho đến giờ, chúng tôi vẫn không hiểu các cơ quan chức năng lấy đâu ra con số này(?)


Tuy nhiên, từ khi thành lập (năm 1979), Ban Giám đốc Nông trường có chủ trương thành lập quỹ cải thiện đời sống mà CB-CNV thường gọi là “quỹ Công đoàn”. Quỹ này một mặt để hỗ trợ thêm cho CB-CNV ngoài lương căn bản (đến 2001); dùng để chi trong những trường hợp cần thiết mà không được phép chi vượt mức mà ngành Tài chánh  quy định; mặt khác, dùng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho CB-CNV và nông trường viên trong điều kiện lúc bấy giờ đang gặp rất nhiều khó khăn. Quỹ này được hình thành dựa trên chính sách của Nhà nước lúc đó là nhằm bảo đảm hài hòa 3 lợi ích: nhà nước, tập thể và cá nhân; chủ yếu có được từ hoạt động của tập thể qua các việc: Tận dụng đất đai, mặt nước tự nhiên (không thể giao khoán sản xuất) để trồng chuối, trồng bạch đàn, trồng ấu, thu hoạch cá lung bàu, cá trên mặt nước tự nhiên; hoặc tận thu từ các phụ và phế phẩm trong sản xuất v.v... Liên tục nhiều năm, nhất là những năm sau này, quỹ công đoàn được chi vào các khoản: trợ cấp ốm đau, ma chay, cưới hỏi; thi đua khen thưởng; hỗ trợ cất nhà cho CB-CNV và nông trường viên, dành một phần để cất nhà tình thương, nhà tình nghĩa; hỗ trợ lễ tết cho bà con dân tộc Khmer, các gia đình chính sách, thanh toán các khoản chi phí sản xuất - kinh doanh, chi các khoản hoa hồng mà không đủ chứng từ hoặc vượt quá qui định thanh toán và chi hỗ trợ cho các phong trào đoàn hội các cấp ở địa phương v.v…


Nhờ nguồn quỹ này, Nông trường đã bảo đảm cân đối việc thu - chi, không hề lấy từ các khoản thu khác của các xí nghiệp hoặc từ bất kỳ nguồn thu nào của nông trường viên. Tóm lại là việc chi quỹ công đoàn tại Nông trường hoàn toàn đúng đắn theo yêu cầu cần thiết phục vụ cho đời sống và phục vụ cho các hoạt động văn hóa - tinh thần và sản xuất - kinh doanh của Nông trường cũng như của CB-CNV và nông trường viên.


- Con số 9 tỷ đồng: Số tiền này bao gồm:


+  Trên 2 tỷ đồng là khoản thu từ các sản xuất của tập thể Nông trường (chủ yếu là tiền bán bạch đàn, do tập thể trồng cây trong phong trào lao động XHCN).


+  Trên 2 tỷ đồng khác là tiền bán đất do Công đoàn Nông trường (chứ không phải của Nông trường) mua từ năm 1993 đưa vào quỹ đời sống.


Tổng cộng hai khoản trên 4 tỷ đồng.


+  Phần còn lại (trên 4 tỷ đồng) là tiền Nông trường phải đi vay mượn thêm bên ngoài là để chi trả cho các khoản nhằm giải quyết những khó khăn của Nông trường và trả lãi suất của phần phải vay mượn thêm.


 


2. Vấn đề thứ hai: Các báo nêu: “… Nông trường buông lỏng quản lý, dẫn tới thua lỗ kéo dài, hiện nợ 3 ngân hàng và mất khả năng chi trả 230 tỷ đồng (chưa kể lãi)…”


Chúng tôi xin giải trình: Đến thời điểm này (tháng 6/2008), Nông trường đang vay nợ một số ngân hàng, cụ thể là: Ngân hàng Công thương Cần Thơ: 56 tỷ đồng; Ngân hàng Nông nghiệp Cần Thơ: 32 tỷ đồng; Ngân hàng Đông Á: 70 tỷ đồng và các khoản nợ khác v.v… Như vậy, tổng số tiền Nông trường đang nợ  (gồm vốn lưu động và vốn vay dài hạn) là hơn 200 tỷ đồng  để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh.


 Tuy nhiên, cũng tính đến thời điểm trên, vốn chủ sở hữu của Nông trường (gồm vốn cố định và vốn lưu động) được xác định là trên 300 tỷ đồng (đó là chưa kể giá trị 7.000 ha đất của Nông trường và gần 68 ha đất đai, nhà cửa mà Nông trường mua thêm nằm ngoài Nông trường). Nên nói rằng Nông trường “mất khả năng chi trả” số tiền nói trên là không chính xác.


 


3. Vấn đề thứ ba: Các báo nêu: “ Nông trường dùng 1.600 ha đất nông nghiệp để khoán cho nông dân thu thêm 1.000 kg/ha, với tổng thu là trên 33 tỷ đồng để thu, chi ngoài sổ sách…”


Chúng tôi xin giải trình: Từ năm 1979 đến 1996, trong quá trình thực hiện khai hoang cải tạo đồng ruộng, anh em Nông trường đo đạc đã trừ ra phần diện tích gò đìa lung bàu không thể canh tác được, nên không đưa vào diện tích khoán tính cho nông trường viên. Đến năm 1996, khi việc cải tạo đồng ruộng cơ bản đã hoàn chỉnh, Nông trường đã hợp đồng với sở Địa chính (nay là sở Tài nguyên và Môi trường) đo đạc lại số diện tích đó (bằng máy móc chuyên dụng) đã xác định diện tích đất này là khoảng 700 ha, cộng với số đất nông trường viên trả lại, đất giật nợ, đất Nông trường cải tạo thêm, đất chưa đóng thế chấp bảo hiểm hợp đồng sản xuất… nên diện tích tăng lên tới hơn 1.500 ha. Toàn bộ diện tích này được xác định là “đất quỹ dự phòng”, trong đó Ban Giám đốc công khai cho phép các hộ nông trường viên muốn mượn thêm để sản xuất thì thỏa thuận phải đóng phụ thu thêm cho Nông trường 1.000 kg thóc/ha và thời gian cho mượn cũng chỉ trong 1 năm, hộ mượn đất không phải đóng bảo hiểm hợp đồng như hộ nông trường viên chính thức (xin tham khảo “Bản cam kết về việc sử dụng đất quỹ” đính kèm theo đây). Hiện tại, số đất này còn khoảng 1.200 ha. Sắp tới đây, nếu Nông trường xét cho bà con đóng thế chấp bảo hiểm hợp đồng và thực hiện giao khoán theo Nghị định 135 CP của Chính phủ thì quỹ đất này chỉ còn hơn 200 ha.


Việc thỏa thuận giữa Nông trường và hộ nông trường viên về sử dụng đất quỹ nói trên cũng căn cứ theo Quyết định 1356/QĐ.UBT.93 (ngày 19/06/1993) của UBND tỉnh Cần Thơ (cũ). Nội dung của Quyết định là cho phép tính phụ thu đối với các trường hợp chậm thực hiện đóng thế chấp hoặc chưa đóng và để tạo sự công bằng, khuyến khích nông trường viên tích cực tham gia và hoàn thành sớm bảo hiểm hợp đồng sản xuất (vì trong các khoản thu trong cơ chế khoán của nông trường không có khoản dự phòng, bù đắp rủi ro trong sản xuất, cũng như không có phần trăm (%) lợi nhuận định mức nào). Mặt khác, trên thực tế, Nông trường đã giảm miễn nợ cho nông trường viên qua nhiều đợt (từ năm 1993 đến năm 2005) với số lượng hơn 5.517 tấn thóc, chưa kể khoản nợ được Nông trường khoanh lại không tính lãi suất cho nông trường viên, tương đương với giá trị thời điểm lúc đó là 6.996.396.640 đồng (nếu tính theo giá thời điểm hiện nay là trên 30 tỉ đồng).


Như vậy, đối với những hộ không có đất gốc, chưa thực hiện đóng thế chấp, Nông trường chủ trương ngoài việc thực hiện nghĩa vụ khoán sẽ đóng góp cho Nông trường với mức 1.000 kg thóc/ha/năm. Mục đích của việc thu này là do trước đó, toàn bộ diện tích đất này đã được Nông trường đi vay vốn để bồi hoàn cho các hộ có đất cũ. Chủ trương này hoàn toàn được sự đồng thuận của bà con nông trường viên và áp dụng cho những hộ mượn thêm đất (vì nếu không, đã chẳng có hộ nào hợp đồng nhận các mảnh đất này, đồng nghĩa với việc Nông trường phải để đất hoang hóa). Trong khi thời điểm đó (1993 - 1994), mức lãi suất ngân hàng là từ 2,5 đến 3%/ tháng. Theo chỉ đạo của UBND tỉnh Cần Thơ (cũ): một héc-ta Nông trường phải bồi hoàn thành quả lao động (cho đối tượng là người có chứng thư, chứng khoán từ chế độ cũ) là 4.000 kg thóc/ha; thì riêng lãi suất 1 năm Nông trường phải trả cho ngân hàng từ tiền vay để bồi hoàn thành quả cho các hộ có đất cũ lên đến trên 1.200kg thóc/ha (2,5% x 12 tháng x 4.000kg thóc/ha = 1.200kg thóc/ha)


- Về vấn đề chi số tiền trên 33 tỷ đồng thu từ việc khoán quỹ đất nói trên: Nông trường vẫn mở sổ sách ghi nhận và hạch toán kế toán chung cho tất cả nghiệp vụ thu - chi và hàng năm Nông trường đều gửi đầy đủ các bản báo cáo quyết toán về Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp & PTNT, Cục Thuế… trong đó nguồn thu đã được dùng để chi cho các khoản: bù đắp cho các khoản chi phúc lợi, giáo dục, y tế, các đoàn hội, phong trào v.v… cho nông trường viên (do trên thực tế, trong suốt 25 năm (1979-2004) Nông trường đã phải làm thay chức năng quản lý nhà nước cấp xã, không hề được cấp ngân sách). Mặt khác, một phần đáng kể nguồn thu trên còn dùng vào việc bù đắp cho các rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, miễn giảm nợ sản xuất nông nghiệp; hoàn vốn vay ngân hàng cho những khoản chi vượt số thu trong phần định mức khoán và thu thỏa thuận; chi thêm về xây dựng đường điện, cho Quyết định 99, đồng thời trả lãi suất cho các khoản chi vượt này; dành để trả một phần nhỏ lãi vay của tiền đền bù thành quả lao động các năm 1993 - 1994 cho số dân có chứng thư, chứng khoán từ chế độ cũ v.v… (Về cụ thể các khoản chi, xin tham khảo bảng thống kê dưới đây)


Do là một đơn vị sản xuất-kinh doanh, nên cách hạch toán và mở sổ sách ghi nhận của Nông trường có khác biệt so với các đơn vị hành chánh sự nghiệp. Vừa qua, Nông trường cũng đã giải trình cho Đoàn Thanh tra về các khoản chi từ nguồn thu nói trên mà báo chí đề cập.


Giải trình tóm tắt việc chi từ nguồn thu đất mượn 33.163.107.162 đ




































 


Nội dung chi


Số tiền


(1)


Thiếu nguồn chi phí dùng cho quản lý sản xuất và phục vụ phúc lợi cho nông trường viên so với nguồn thu định mức khoán và thu thoả thuận, phải bù thêm


 


 


 


10.543.119.168 đ


(2)


Lãi phát sinh do thiếu nguồn chi (1)


6.567.978.223 đ


(3)


Tổng giảm miễn nợ cho nông trường viên qua các năm


 


6.638.836.990 đ


(4)


Miễn lãi suất đầu tư sản xuất nông nghiệp vụ ĐX 2004 - 2005


 


357.559.650 đ


(5)


Thiếu nguồn chi trong thực hiện QĐ số 99/TTg, phải bù


 


1.038.137.491 đ


(6)


Lãi phát sinh do thiếu nguồn chi trong thực hiện QĐ 99


 


486.997.106 đ


(7)


 


(8)


 


(9) 


 


 


Chi trả lại cho hộ ngưng hợp đồng sản xuất tại NTSH


Thiếu nguồn chi phải bù cho việc thực hiện dự án xây dựng mạng lưới điện nông thôn


Chi trả lãi vay do thiếu nguồn chi để thực hiện dự án xây dựng mạng lưới điện nông thôn


 


15.639.000 đ


 


  1.809.215.203 đ


 


1.619.905.422 đ


 


 


      Qua bảng trên, có thể tóm tắt các khoản chi như sau:


- Tổng bù chi phí SX so với thu định mức và thoả thuận (1) + (2):     


                                                                               17.111.097.391 đ


- Tổng miễn giảm cho dân (3) + (4):                       6.996.396.640 đ


- Tổng tiền bù cho việc thực hiện QĐ 99 (5) + (6):  1.525.134.597 đ


- Tổng tiền bù để sớm hoàn thành dự án điện (7) + (8) + (9):        


                                                                                 3.444.759.625 đ


Như vậy tổng số chi bù các khoản trên là:       29.077.388.253 đ


So với tổng tiền thu “đất mượn” là:                 33.163.107.162 đ 


Vậy phần còn chênh lệch dư là:                         4.085.718.909 đ


(phần chênh lệch này, Nông trường đã sử dụng một phần trả lãi vay ngân hàng (do trong những năm 1993 - 1994, Nông trường phải đi vay Ngân hàng để chi trả thành quả lao động cho hộ có chứng thư, chứng khoán của chế độ cũ) trong khi đó, tổng số lãi Nông trường phải tự bù đắp là 30.867.299.986 đồng).


 


4. Vấn đề thứ tư: Báo chí nêu: “Nông trường ký 20 hợp đồng với 7 công ty và 2 cá nhân gây thất thoát trên 5,5 tỷ đồng…”


Chúng tôi xin giải trình: Đối với các Công ty, tại thời điểm ký kết, các hợp đồng đều đúng qui định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh các vấn đề từ phía đối tác, chẳng hạn như:


- Do thua lỗ: Công ty H & M, Công ty Kim Hải (bị ngưng nhập khẩu gà Nagoya vào Nhật), Công ty cổ phần xuất - nhập khẩu và Xây dựng Công trình TP. Hồ Chí Minh bị khách hàng dây dưa trong thanh toán XDCB; Công ty Hebet Food Stuff thua lỗ ở thị trường Trung Quốc.


- Do tranh chấp về chất lượng hàng hóa: Công ty Asian Pacific Garden, Công ty TD Line Collection.


- Do bỏ trốn: Ông Võ Văn Sang, trường hợp này Công ty cổ phần Thủy sản đã trả nợ thay dứt điểm cho Nông trường Sông Hậu vào tháng 12/2006 và Công ty cổ phần này chịu tránh nhiệm thu hồi nợ từ ông Sang.


Trong kinh doanh, những rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, để khắc phục, Nông trường đã tiến hành các giải pháp cần thiết để thu hồi nợ như tiến hành khởi kiện tại các Tòa án TP. Hồ Chí Minh, Tòa án TP. Cần Thơ.


Nông trường cũng đã và đang xử lý, đồng thời đang thu hồi, khởi kiện các trường hợp cố tình dây dưa trong việc thanh toán công nợ như:


- Hợp đồng với Công ty Kim Hải: còn nợ 527.414.657 đ. Nông trường đã cử cán bộ đi đòi nợ nhiều lần đồng thời có văn bản chính thức gửi cho Công ty này từ ngày 10/12/2007 và nếu công ty không trả nợ, Nông trường sẽ khởi kiện.


- Công ty TNHH Gia Kiệm: trong quá trình Nông trường điều chỉnh lại qui mô sản xuất, sau khi có sự đồng thuận của UBND tỉnh Cần Thơ và Hội đồng Thanh lý tài sản liên ngành Tài chính - Nông nghiệp, Nông trường thanh lý máy móc thiết bị và phát hành hóa đơn cho Công ty Gia Kiệm. Khi lập hồ sơ xin vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển Đồng Nai, do thiết bị cũ, Công ty Gia Kiệm không vay được nên không thể trả ngay một lần cho Nông trường. Để giải quyết khó khăn, Nông trường và Công ty này đã liên doanh sản xuất theo hình thức công ty Gia Kiệm gia công sản xuất, Nông trường tìm đầu ra tiêu thụ, từ đó Nông trường sẽ thu lại lợi ích từ việc mua bán hàng cũng như thu tiền thanh lý từ nguồn khấu hao. Nhờ vậy đến nay, Nông trường đã thu hồi đủ số nợ trên.


- Hợp đồng với Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Công trình TP.HCM: Công nợ phải thu là 137.144.271 đồng, đến nay Nông trường đã thu hồi đủ số nợ trên.


- Hợp đồng với Công ty Asia Pacific Garden: Công ty này nợ Nông trường 2.073.435.388 đ. Nông trường đã khởi kiện và thắng kiện theo Bản án số 880/2007/KDTM-ST (ngày 30/05/2007) của Tòa án Sơ thẩm TP. Hồ Chí Minh và Quyết định Thi hành án số 15/THA-YC (ngày 03/10/2007) của Cơ quan Thi hành án TP. Hồ Chí Minh, buộc Công ty Asia Pacific Garden phải trả số tiền cho Nông trường Sông Hậu.


- Hợp đồng với Công ty TD. Line Collection ở Đức: Còn nợ 1.213.635.437 đ. Hiện nay, Công ty này đang thương lượng với Nông trường cách trả nợ. Sự thực thì với số tiền bị coi là nợ này, công ty TD. Line Collection không nhận được lô hàng (đồ gỗ) về bàn ghế, vì theo hợp đồng: chỉ khi nào công ty giao đủ tiền hàng thì Nông trường mới gửi bộ chứng từ (thuật ngữ chuyên ngành gọi là “bill”), khi đó họ mới nhận được hàng. Do công ty này chưa giao đủ tiền theo cam kết, Nông trường đã không gửi bộ chứng từ nên họ đã không nhận được hàng. Hãng tàu do sợ mất kinh phí vận chuyển và phí lưu kho, lưu bãi nên tự họ đã xử lý bằng cách thanh lý lô hàng này; vì vậy buộc công ty TD. Line Collection phải ký nợ với Nông trường.


- Công ty Hepet Foods Tuef IMP ở Trung Quốc: còn nợ 235.945.668 đ (15.116,97 USD), hiện đang có người Việt Nam bảo lãnh nợ và thanh toán thay.


- Hợp đồng với Công ty ZAO H&M: Công ty đã ký xác nhận còn nợ với Nông trường (vào ngày 06/07/2006) là : 20.570,04 USD. Công ty này đang đề nghị cách trả nợ dần và họ đang thực hiện trả 1.000 USD/tháng.


- Khoản nợ của Võ Văn Sang: 637.155.057 đồng (là tiền mua cá của ngành  thủy sản), Nông trường đã thu đủ số tiền nợ 637.155.057 đồng.


- Khoản nợ của ông Phan Thanh Dũng: nợ số tiền bán hàng của Nông trường cho khách hàng, nhưng do ông Dũng bị giật nợ số tiền 192.370.363 đồng. Nông trường đã bảo đảm thu nợ bằng cách giữ giấy tờ nhà đất có giá trị và có gia đình ông Phan Thanh Dũng bảo lãnh, hiện Nông trường đã thu đủ số nợ này.


- Khoản nợ của ông Nguyễn Văn Minh: 10.000.000 đ, Nông trường đã thu đủ số nợ này.


Tổng cộng đến nay, Nông trường đã thu hồi được 1.407.285.360 đồng, thắng kiện 2.073.435.388 đồng. Như vậy, số tiền nợ của các công ty và cá nhân nói trên đến nay chỉ còn 2.096.806.899 đồng.


Trong quá trình kinh doanh (từ năm 1993 đến 2005), Nông trường đã thực hiện hàng ngàn hợp đồng với hàng trăm công ty hoàn toàn trôi chảy và hiệu quả, tuy nhiên do nhiều lý do (chủ quan và khách quan) nên sự trục trặc trong giao dịch và thu hồi nợ với một số công ty và cá nhân là không tránh khỏi. Nông trường đã và đang tích cực thu hồi các công nợ phát sinh theo các Nghị định 69/2002 (ngày 12/07/2002) và Nghị định 16/CP (ngày 12/02/1997) của Nhà nước và vẫn bảo đảm giữ được vốn và uy tín hoạt động với các khách hàng cũng như các ngân hàng.


 


5. Vấn đề thứ năm: Báo chí nêu: “ Giám đốc tùy tiện xóa nợ cho 20 cá nhân và 2 Việt kiều với số tiền là 2,5 tỷ đồng và 14.000 USD…”


Chúng tôi xin giải trình: Đây là các chi phí thực tế trong quá trình đi công tác của các CB-CNV (bao gồm tiền công tác phí, tiền huê hồng, giao dịch...) nhưng không tập họp được đủ các chứng từ thanh toán, cũng như những rủi ro, vướng mắc khác trong quá trình kinh doanh. Theo ý kiến của đoàn Kiểm toán Nhà nước (năm 2004) và biên bản giải quyết công nợ (ngày 31 tháng 12 năm 2004) của Hội đồng giải quyết nợ của Nông trường (gồm ban Giám đốc, kế toán trưởng, ban Thanh tra nhân dân và Công đoàn Nông trường) số tiền này được ghi nhận theo dõi trên ngoại bản và hạch toán vào chi phí. Đây không phải là phần giảm miễn nợ mà sẽ theo dõi thu vào các năm sau, ghi vào phần thu nhập bất thường.


Chỉ có một Việt kiều ở Đức (chứ không phải là 2 người như báo chí nêu), do lô hàng đồ gỗ của Nông trường giao không đạt chất lượng, để giữ uy tín, Nông trường chấp thuận giảm bớt 14.000 USD sau khi bị khách hàng này khiếu nại (trong việc kinh doanh, việc tăng hay giảm giá giữa các đối tác với nhau khi có lý do chính đáng là điều bình thường). Mặc dù vậy, trong hợp đồng này, Nông trường vẫn thực lãi là 28.000 USD.


Một trường hợp khác là lô hàng quần áo xuất sang Ba Lan (cho một công ty ở Việt Nam có gia đình ở nước này): Do Nông trường mới lập xưởng may để đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho con em của Nông trường, tay nghề của các cháu còn yếu nên chưa đạt chất lượng. Trong khi Nông trường giao hàng trễ mùa, lại gặp lúc Đông Âu bị khủng hoảng nên không bán được lô hàng. Để khắc phục tình trạng hàng bị lưu kho phát sinh chi phí, Nông trường đã phải giải quyết bằng cách gửi tặng toàn bộ lô hàng cho Hội Chữ thập đỏ của Ba Lan.