Đề nghị xem xét vụ án "Buôn lậu, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" xảy ra tại tỉnh Quảng Trị và TP.Đà Nẵng

Facebook Google+ Email

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-------o0o--------

 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ

58C Hùng Vương – Phường Thới Bình.

Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ.

ĐT: (0710) 3822490 – DĐ: 0913.870099

Website: www. vanly.com.vn

----------------------------------------------------------------------------------------

                                              Cần Thơ, ngày 01 tháng 10 năm 2014.

 

ĐỀ NGHỊ XEM XÉT VỤ ÁN “BUÔN LẬU, THIẾU TRÁCH

NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG” XẢY RA

TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ VÀ TP.ĐÀ NẴNG

 

Kính gửi:    - CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.

                 - VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.

                 - TÒA HÌNH SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.

                 - PHÒNG 1 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.

 

Tôi: Luật sư Nguyễn Trường Thành – Trưởng Văn phòng luật sư Vạn Lý, Đoàn luật sư TP.Cần Thơ là người bào chữa cho 2 bị cáo Lê Xuân Thành và Đỗ Lý Nhi (Nguyên cán bộ hải quan cảng Cửa Việt Cục hải quan tỉnh Quảng Trị) bị VKSND tối cao truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” trong vụ án “Buôn lậu” có bị cáo đầu vụ là Trương Huy Liệu. Theo cáo trạng số 14/KSTC-V1 ngày 07/05/2014 (Bút lục số 1) TAND TP.Đà Nẵng đang thụ lý để xét xử sơ thẩm.

- Sau khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án.

- Sau khi gặp và trao đổi với bị cáo.

- Căn cứ Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Căn cứ giấy chứng nhận người bào chữa số 58, 59/2014/HS/GCNNBC ngày 23/06/2014 của TAND TP.Đà Nẵng, Luật sư trân trọng đề nghị TAND TP.Đà Nẵng xem xét lại các vấn đề sau đây:

I/ VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG.

Quá trình điều tra vụ án có những thiếu sót nghiêm trọng ảnh hưởng đến quá trình đánh giá chứng cứ để xác định các bị cáo có phạm tội “Buôn lậu”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” hay không. Cụ thể:

Thứ nhất: Hồ sơ vụ án chưa có tài liệu chứng minh “Hậu quả nghiêm trọng đối với hành vi thiếu trách nhiệm đối với 2 cán bộ hải quan cảng Cửa Việt Lê Xuân Thành và Đỗ Lý Nhi”. Cụ thể, theo quyết định điều tra bổ sung số 01/QĐ-VKSTC-V1 ngày 11/12/2013 (Bút lục số 2) đã yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an điều tra xác định “Hậu quả do hành vi thiếu trách nhiệm của công chức thuộc Chi cục hải quan cửa khẩu cảng Cửa Việt và cảng Đà Nẵng gây ra”. Nhưng cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an không tiến hành điều tra xác định “Hậu quả như thế nào về vật chất, phi vật chất” mà chỉ lập một biên bản vào ngày 26/02/2014 ghi nhận ý kiến của Tổng Cục hải quan, cơ quan cảnh sát điều tra (C44), Hải quan cửa khẩu Đà Nẵng và hải quan Quảng Trị. Trong khi đó tại biên bản này lại ghi “Thống nhất với kết luận điều tra vụ án số 13/KLĐT-C44(P4) ngày 15/10/2013 và công văn số 139/C44-P4 ngày 18/02/2014 gửi Tổng Cục hải quan (Bút lục số 3).

Như vậy, thực chất “Hậu quả nghiêm trọng của vụ án” theo quyết định điều tra bổ sung của VKSND tối cao đã không được cơ quan cảnh sát điều tra (C44) Bộ Công an tổ chức điều tra xác định hay nói cách khác vụ án không có “Hậu quả nghiêm trọng xảy ra”.

Thứ hai: Cũng theo yêu cầu điều tra bổ sung ngày 32/12/2013 của VKSND tối cao yêu cầu xác định số tiền 3.246.503.717đ Công ty Ngọc Hưng đã nộp vào tài khoản của Chi cục hải quan cửa khẩu Lao Bảo để thu hồi. Tuy nhiên theo văn bản ngày 20/02/2014 của Tổng Cục hải quan (Số 1601/TCHQ-TXNK) gửi cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an (C44) thông báo số tiền trên đã hạch toán vào ngân sách nhà nước. Nhưng cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an không tiến hành xác định số tiền nói trên nộp vào ngân sách nhà nước là hợp pháp hay không hợp pháp.

Cần thiết phải trưng cầu ý kiến chuyên môn của Cục quản lý vốn ngân sách nhà nước của Bộ tài chính hoặc ý kiến của Tổng Cục thuế về số tiền nêu trên nếu là hợp pháp thì không thu hồi, nếu không hợp pháp phải thu hồi để Tòa án có căn cứ xử lý. Bởi theo kết luận điều tra của C44 Bộ Công an số tiền trên là số tiền mà Công ty Ngọc Hưng đóng thuế GTGT.

Thứ ba: Tài liệu điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an không thể hiện bản ảnh chụp số lượng gỗ bị tạm giữ tại Đà Nẵng, trong khi đó theo các bản ảnh Luật sư đang có (Đính kèm một số bản ảnh) xác định được dấu búa kiểm lâm của Lào trên lô gỗ nhập khẩu của Công ty Ngọc Hưng. Do đó cần phải tiến hành giám định thực tế lô gỗ có dấu búa kiểm lâm của Lào hay không. Tuy nhiên trong quá trình điều tra vụ án khi vụ án chưa xét xử cơ quan cảnh sát điều tra (C44) Bộ Công an đã bán đấu giá “Vật chứng của vụ án”. Nên việc giám định dấu búa trên vật chứng không thể tiến hành được nên cần thiết phải giám định qua bản ảnh chụp để xác định “Có phải là dấu búa kiểm lâm của nước bạn Lào hay không”. Điều này có ý nghĩa quan trọng để xác định “Nguồn gốc là hàng nhập khẩu của Công ty Ngọc Hưng là hợp pháp hay không?” đồng thời xác định có hay không hành vi buôn lậu?.

Thứ tư: Theo cáo trạng của VKSND tối cao xác định “Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành” chỉ kiểm tra hàng hóa tại cảng Cửa Việt trong thời gian 3 tiếng từ 8 giờ đến 11 giờ ngày 20/12/2011 là chỉ có 4 xe container có mặt tại khu vực kiểm hóa 7 xe chiều ngày 20/12/2011 mới tới khu vực kiểm hóa 11 xe hoàn toàn không xuống khu vực kiểm hóa, kết luận này căn cứ vào lời khai của lái xe nhưng không được Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành thừa nhận nhưng cơ quan cảnh sát điều tra (C44) Bộ Công an không tổ chức đối chất.

Mặt khác, tại biên bản làm việc 07/08/2012 giữa cơ quan điều tra Bộ Công an và đồn biên phòng cảng Cửa Việt (Bút lục số 8)lại xác định rõ trách nhiệm quản lý việc xuất nhập khẩu của người, hàng hóa, phương tiện vận tải theo quy trình quy định tại pháp lệnh đồn biên phòng và Nghị định số 50/2008/NĐ-CP ngày 21/04/2008 về quản lý bảo vệ an ninh trật tự tại cửa khẩu cảng biển, Thông tư số 05/2010/TT-BQP ngày 18/01/2010 và các văn bản liên quan theo đó đã xác định đồn biên phòng cửa khẩu cảng Cửa Việt thực hiện quản lý xuất nhập của người, hàng hóa, phương tiện tại cảng Cửa Việt. Do đó toàn bộ số xe 22 container đều được vào cảng Cửa Việt (Đính kèm biên bản) để làm thủ tục phải qua đồn biên phòng Cửa Việt. Do vậy cần thiết phải đưa đồn biên phòng cảng Cửa Việt vào tham gia tố tụng với tư cách là người liên quan hoặc nhân chứng và tiến hành đối chất giữa tài xế, hải quan Cửa Việt, biên phòng cảng Cửa Việt và 2 bị cáo để xác định sự thật 22 container có vào cảng Cửa Việt hay không. Đáng tiếc cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an C44 chưa thực hiện.

Thứ năm: Trong quá trình điều tra vụ án vật chứng quan trọng nhất là “Lô hàng gỗ nhập khẩu của Công ty Ngọc Hưng” cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã có quyết định bán đấu giá là trái quy định tại Điều 75 của Bộ luật tố tụng hình sự. Theo điều luật này cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an chỉ có quyền quyết định bán vật chứng khi chứng minh được “Hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản” lô gỗ của Công ty Ngọc Hưng nhập khẩu, xuất khẩu không thuộc loại hàng hóa mau hỏng và khó bảo quản. Hồ sơ điều tra cũng không có tài liệu cơ quan chuyên môn giám định hàng hóa có thuộc diện để bán đấu giá hay không. Việc bán đấu giá của cơ quan điều tra không những xóa đi dấu vết xác định nguồn gốc hàng nhập hợp pháp của Công ty Ngọc Hưng mà còn gián tiếp gây áp lực lên cơ quan xét xử là TAND TP.Đà Nẵng khi giải quyết vật chứng vụ án hoặc xem xét chứng cứ tại Tòa. Mặt khác, lô hàng đã và đang tranh chấp quyền sở hữu theo văn bản của đại sứ quán Trung Quốc và Bộ an ninh nội địa Lào theo chính kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an (Bút lục số 4).

II/ VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN.

Tại cáo trạng số 14/VKSTC-V1 ngày 07/05/2014 của Viện trưởng VKSND tối cao đã truy tố Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung về tội “Buôn lậu” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 153 Bộ luật hình sự và truy tố Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành , Đỗ Danh Thắng về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự.

Nội dung truy tố Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành được VKSND tối cao kết luận như sau:

“Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành là công chức thuộc Chi cục hải quan cảng Cửa Việt được giao nhiệm vụ kiểm tra, làm thủ tục hải quan cho lô hàng xuất khẩu của Công ty Ngọc Hưng theo Điều 16+17 Luật hải quan quy định về thủ tục và địa điểm làm thủ tục hải quan thì Công ty Ngọc Hưng phải đưa toàn bộ hàng hóa phương tiện 22 container đến trụ sở Chi cục hải quan Cửa Việt để kiểm tra. Tuy nhiên tại thời điểm Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành kiểm tra hàng hóa trong thời gian 3 tiếng từ 8 giờ đến 11 giờ ngày 20/12/2011 chỉ có 4 xe container có mặt tại khu vực kiểm hóa, 7 xe chiều ngày 20/12/2011 mới tới, 11 xe hoàn toàn không xuống khu vực kiểm hóa khi kiểm tra Nhi, Thành không ghi rõ số hiệu container và số niêm phong của container đã kiểm tra, tờ khai hải quan do Công ty Ngọc Hưng khai báo có 3 mặt hàng gỗ trắc có mã số hàng hóa thuế xuất khác nhau, như gỗ trắc xẽ mã số 4403999000 thuế xuất 10% nhưng Nhi và Thành kiểm tra một mặt hàng gỗ trắc xẽ mà không kiểm tra 2 mặt hàng gỗ trắc còn lại (Gỗ trắc tròn và gỗ trắc tận dụng gốc, cầu, ngọn). Nhưng lại kết luận lô hàng có số lượng mã số xuất xứ đúng tờ khai hải quan và làm thủ tục thông quan cho 22 xe container chở gỗ của Công ty Ngọc Hưng.

Việc Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành không tuân thủ các quy định quy trình hải quan về kiểm hóa với lô gỗ xuất khẩu của Công ty Ngọc Hưng nên đã không phát hiện 27 kiện hàng gồm 867 sản phẩm = 1, 428m3 gỗ trắc; 23, 828 m3 giáng hương, 224,944m3 trắc xẻ mà Công ty Ngọc Hưng đã không khai báo khi làm thủ tục hải quan để nhập khẩu, xuất khẩu, không phát hiện được việc buôn lậu của Công ty Ngọc Hưng. Hậu quả là số gỗ Công ty Ngọc Hưng không khai báo khi làm thủ tục xuất khẩu trị giá 30.060.814.616 đồng đã được vận chuyển vào cảng Tiên Sa Đà Nẵng để xuất đi Hồng Kông Trung Quốc.

Với hành vi trên VKSND tối cao xác định “Có căn cứ xác định Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành đã có hành vi thực hiện không đúng, không đầy đủ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 16, Điều 17 Luật hải quan, Điều 11 Nghị định số 154/2005/NĐ.CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ. Quy định chi tiết một số điều của Luật hải quan về thủ tục hải quan kiểm tra, giám sát hải quan và bước 2 quyết định số 1171/QĐ-TCHQ ngày 15/06/2009 của Tổng Cục hải quan về quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại. Nên không phát hiện được hành vi buôn lậu của Trương Huy Liên, Trần Thị Dung trị giá 30.060.814.616 đồng nên đã phạm vào tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự”.

1/ Ý kiến của Luật sư.

Việc VKSND tối cao truy tố Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự là không có căn cứ pháp lý vững chắc. Bởi các lý do sau đây:

Thứ nhất: Theo cáo trạng của VKSND tối cao sở dĩ truy tố 2 bị cáo nêu trên có hành vi thiếu trách nhiệm xuất phát từ quan điểm cho rằng “Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung phạm tội buôn lậu với số hàng hóa trị giá 30.060.814.616 đồng như vậy nếu chứng minh được Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung không buôn lậu đương nhiên Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành không thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

Tài liệu điều tra vụ án không chứng minh được Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung phạm tội buôn lậu trên cơ sở các bằng chứng sau đây:

a/ Theo giấy chứng nhận đăng ký Doanh nghiệp Công ty TNHH MTV mã số 3200260000 đăng ký lần đầu ngày 19/01/2007 đăng ký thay đổi lần 1 ngày 19/12/2011 của Phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Quảng Trị cấp cho Cty TNHH MTV Ngọc Hưng đã xác định ngành nghề kinh doanh của Công ty (Bút lục số 6).

1/ Bán buôn Tre, Nứa, Gỗ cây, gỗ chế biến

Chi tiết “Bán buôn xuất nhập khẩu Tre, Nứa, Gỗ cây, gỗ chế biến”.

Như vậy nhập khẩu gỗ từ Lào về Việt Nam rồi xuất thẳng sang Hồng Kông Trung Quốc của Công ty Ngọc Hưng là hoạt động kinh doanh hợp pháp đã được đăng ký kinh doanh.

b/ Hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu, cụ thể (Lô gỗ trắc có lẫn một ít gỗ giáng hương không thuộc danh mục bị nhà nước CHXHCN Việt Nam cấm nhập, cấm xuất được chứng minh tại công văn số 1328/BCT-NNK ngày 06/02/2013 của Bộ Công thương gửi Tổng Cục hải quan (Bút lục số 10) đã xác định rõ). Theo quy định tại Nghị định 12/2006 /NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý, mua bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài, gỗ tròn, gỗ xẻ từ rừng tự nhiên trong nước thuộc mặt hàng cấm xuất khẩu. “Gỗ nhập khẩu, tạm nhập tái xuất từ các nước vào Việt Nam (Trừ Campuchia) cũng như gỗ xuất khẩu từ nguồn nhập khẩu không thuộc danh mục cấm nhập khẩu xuất khẩu, tạm nhập tái xuất” Doanh nghiệp làm thủ tục hải quan không phải xin phép Bộ Công thương.

Theo kết luận điều tra vụ án và cáo trạng VKSND tối cao xác định lô gỗ của Công ty Ngọc Hưng có nguồn gốc từ Lào, nên theo văn bản nêu trên khẳng định được không thuộc đối tượng “Cấm nhập, cấm xuất” nên không thể là “Hàng lậu”.

c/ Lô hàng xuất khẩu theo tờ khai 849/XKD/C32D ngày 19/12/2011 của Công ty Ngọc Hưng là lô hàng xuất nguyên lô có nguồn gốc nhập khẩu tại Lào theo tờ khai nhập khẩu số 1505/NKD ngày 17/12/2011 mở tại Chi cục hải quan cửa khẩu Lao Bảo. Vì vậy theo khoản 8 Điều 113 Thông tư số 194/2010/TT-BTC ngày 06/12/2010 hướng dẫn thủ tục hải quan, thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì không phải nộp thuế nhập khẩu và xuất khẩu, riêng thuế giá trị gia tăng được hoàn thuế. Theo kết luận điều tra vụ án bổ sung số 04/KLĐTBS C44 (P4) ngày 10/03/2014 (Bút lục số 5) của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã kết luận: “Toàn bộ số tiền ứng trước của Công ty Ngọc Hưng là 3.246.503.717 đồng nộp thuế GTGT đã được hoạch toán vào ngân sách nhà nước”. Như vậy việc nhập và xuất lô hàng đến thời điểm hiện tại đã đem đến nguồn lợi cho ngân sách, không có bất cứ thiệt hại hậu quả nào xảy ra đối với thuế xuất phải nộp. Ngân sách nhà nước đang hưởng lợi từ hoạt động kinh doanh hợp pháp của Doanh nghiệp chưa tính tới số thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng của Công ty Ngọc Hưng sau khi hoàn thành hợp đồng với khách hàng. Số tiền mà cơ quan cảnh sát điều tra và VKSND tối cao xác định là 30.060.814.616 đồng không phải là số tiền thiệt hại hoặc hậu quả của vụ án buôn lậu, thiếu trách nhiệm thực chất là giá trị hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu. Do vậy, không có cơ sở pháp lý để kết luận “Buôn lậu”.

d/ Cần lưu ý rằng trong vụ việc xảy ra Bộ Công an đã giao cho Cục cảnh sát điều tra án kinh tế và tội phạm chức vụ (C46) Bộ Công an tiến hành xác minh điều tra dấu hiệu phạm tội sau quá trình tiến hành xác minh trao đổi với Vụ 1 VKSND tối cao, TAND tối cao, cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã có văn bản gửi Tổng Cục hải quan nội dung văn bản số 231/C46/P10 ngày 06/06/2012 nêu rõ “Công ty Ngọc Hưng có hành vi khai báo không đúng số lượng chủng loại gỗ so với thực tế xuất khẩu theo quy định trách nhiệm của người khai báo tại Điều 23 Luật hải quan. Nhưng những sai phạm này không trái quy định nhà nước về công tác quản lý xuất nhập khẩu những sản phẩm này. Do vậy chưa đủ yếu tố cấu thành tội buôn lậu quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam mặc dù lô hàng đã được thông quan”.(Bút lục số 7)

e/ Cũng theo tài liệu điều tra thu thập thì việc nhập khẩu gỗ của Công ty Ngọc Hưng từ nước bạn Lào dựa trên hợp đồng kinh doanh thương mại với nhà máy chế biến gỗ nội thất Lào và nhà máy chế biến gỗ Sa Sy. Sau đó xuất khẩu cho Công ty EAST WELL (FAR EAST) Co.LTD Hồng Kông Trung Quốc cũng thông qua hợp đồng kinh doanh thương mại. Hồ sơ vụ án không có bất cứ kết luận nào của cơ quan chuyên môn (Chẳng hạn Trung tâm trọng tài quốc tế phòng thương mại công nghiệp Việt Nam) cho rằng các hợp đồng nhập khẩu xuất khẩu nêu trên của Công ty Ngọc Hưng là vi phạm pháp luật về kinh doanh thương mại của Việt Nam. Đương nhiên các hợp đồng nhập khẩu và xuất khẩu phải được xem là hợp pháp, điều này hoàn toàn phù hợp với công hàm của đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam và văn bản của Bộ an ninh nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đề nghị Chính phủ và Bộ Công an Việt Nam trả lại số gỗ nêu trên cho Công ty EAST WELL hoặc cho Chính phủ Lào (Có văn bản tại hồ sơ vụ án) (Bút lục số 11).

Tóm lại: Với những căn cứ nêu trên có cơ sở pháp lý chắc chắn để kết luận Công ty Ngọc Hưng không có buôn lậu mà là hoạt động thương mại xuất nhập khẩu gỗ hợp pháp.

Thứ hai: Về việc truy tố Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo khoản 2 Điều 185 Bộ luật hình sự là không có căn cứ. Bởi các lý do sau đây:

a/ Công ty Ngọc Hưng (Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung) không phạm tội buôn lậu như trên đã phân tích, nên Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành không phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

b/ Không chứng minh được hậu quả nghiêm trọng xảy ra đối với hành vi của công chức hải quan Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành (Kết luận điều tra, cáo trạng chỉ chứng minh giá trị lô hàng xuất nhập khẩu mà không chứng minh hậu quả nghiêm trọng là gì).

c/ Không có căn cứ để cho rằng Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành vi phạm Điều 16 điểm b khoản 1 và Điều 17 Luật hải quan (Kiểm hóa ngoài địa điểm) như mục thứ 4 Điều 1 Luật sư đã phân tích.

d/ Điều quan trọng nhất mà cáo trạng quy kết hành vi thiếu trách nhiệm của Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành là vi phạm Điều 11 Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật hải quan. Cụ thể Điều 11 Nghị định  quy định về kiểm tra thực tế hàng hóa theo quy định này thì có 3 mức độ kiểm tra:

a/ Miễn kiểm tra thực tế hàng hóa.

b/ Kiểm tra thực tế toàn bộ lô hàng.

c/ Kiểm tra xác suất để đánh giá về chấp hành pháp luật hải quan của chủ hàng không quá 5% tổng số tờ khai hải quan.

Đối với lô hàng nhập khẩu xuất khẩu của Công ty Ngọc Hưng thì rơi vào điểm c (Tức hải quan cửa khẩu chỉ kiểm tra xác suất lô hàng không quá 5% tờ khai hải quan, hải quan cảng Cửa Việt cụ thể là công chức hải quan Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành đã thực hiện đúng quy định này).

e/ Cáo trạng của VKSND tối cao cho rằng Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành vi phạm bước 2 Quyết định số 1171/QĐ-TCHQ ngày 15/06/2009 của Tổng Cục hải quan về quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại là không có căn cứ. Cụ thể quy trình kiểm tra hàng hóa thông quan đối với lô hàng phải kiểm tra thực tế quyết định số 1171/QĐ-TCHQ ngày 15/06/2009 quy định các bước như sau:

1/ Đề xuất xử lý việc khai bổ sung khi người khai hải quan có yêu cầu (Công ty Ngọc Hưng không có yêu cầu khai bổ sung) nên cán bộ kiểm hóa không có căn cứ để tiến hành.

2/ Kiểm tra thực tế hàng hóa được quy định từ mục 2.1 đến 2.5 kết quả điều tra và cáo trạng không xác định Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành vi phạm mục nào mà chỉ kết luận chung chung là vi phạm bước 2 quyết định số 1171/QĐ-TCHQ. Thực tế như phần trên đã phân tích lô hàng hóa Công ty Ngọc Hưng chỉ phải kiểm tra theo tỷ lệ không quá 5% tờ khai hải quan, cụ thể có 22 container = 535,8m3 5% là 26,44m3. Công chức hải quan Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành đã kiểm tra đủ số lượng trên (Tức 5% lô hàng) theo quyết định số 1171/QĐ-TCHQ thì được quy định tại mục c “Hàng được kiểm tra theo tỷ lệ” thủ tục kiểm tra thực hiện đúng quy định tại tiểu mục c1, c2, c3 không có vi phạm gì.

f/ Trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an và VKSND tối cao đã không xem xét đến quy định tại Điều 9 Quyết định số 48/QĐ-BTC ngày 04/07/2008 của Bộ tài chính quy định về loại trừ trách nhiệm cho công chức kiểm hóa của hải quan. Cụ thể là “Khi đã thực hiện đúng các quy định tại quyết định này và quy trình, quy định của Tổng Cục hải quan nhưng không phát hiện được vi phạm pháp luật về hải quan thì công chức hải quan kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với hàng hóa xuất nhập khẩu quá cảnh, phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh theo quy trình quản lý rủi ro được miễn trừ trách nhiệm cá nhân”.

Tóm lại: Với các căn cứ nêu trên xác định được Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành không có hành vi “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” như cáo trạng VKSND tối cao truy tố.

Khi tiến hành xét xử vụ án, chúng tôi đề nghị TAND TP.Đà Nẵng cho triệu tập thêm đồn biên phòng cảng Cửa Việt, tham tán thương mại đại sứ quán Lào và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam cũng như đại diện của Cục cảnh sát điều tra kinh tế (C46) Bộ Công an để làm rõ thêm các vấn đề liên quan đến vụ án. Đồng thời khi xem xét vụ án có quan tâm đến ý kiến của cơ quan công luận báo chí, đặc biệt là phóng sự điều tra của báo bảo vệ pháp luật thứ 7 của VKSND tối cao về vụ án để có phán quyết công bằng đúng pháp luật.

Trên đây là đề nghị của Luật sư kính mong TAND TP.Đà Nẵng, VKSND TP.Đà Nẵng quan tâm để tránh việc truy tố xét xử oan sai.

Trân trọng.

Nơi nhận:

- Như trên.

- Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành.

- Cục hải quan Quảng Trị.

- Lưu HSBC.

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ

Trưởng Văn Phòng

(Đã ký)

LS: Nguyễn Trường Thành