Đề nghị giám đốc thẩm vụ án lập quỹ trái phép tại Nông trường Sông Hậu

Facebook Google+ Email

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


-------o0o--------


 


CHI NHÁNH VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ


TẠI TP HỒ CHÍ MINH


90 Trần Văn Dư, phường 13, Quận Tân Bình, TP.HCM


ĐT: 0913.870099


Website: www. vanly.com.vn


-----------------------------------------------------------------------------------------


                                           TP.HCM, ngày 27  tháng 11 năm 2009.


 


ĐỀ NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN “LẬP QUỸ TRÁI PHÉP”


TẠI NÔNG TRƯỜNG SÔNG HẬU


           







Kính gửi:


- CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO.


- VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO.


- TOÀ HÌNH SỰ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO.


- VỤ 3 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO.


 


 


Với tư cách là Luật sư bào chữa cho bà Trần Ngọc Sương trong vụ án “lập quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu, từ giai đoạn điều tra đến xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Căn cứ Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật sư có văn bản này trân trọng đề nghị TAND tối cao, VKSND tối cao xem xét lại vụ án theo trình tự giám đốc thẩm. Bởi các lý các lý do sau đây:


I. Có căn cứ xác định việc điều tra truy tố và xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, thể hiện.


1/ Giai đoạn điều tra có những vi phạm sau đây:


a/ Ngày 09/04/2008 cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ có quyết định khởi tố vụ án hình sự số 40 về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, (bút lục số 3). Theo văn bản chỉ đạo của Thành Uỷ TP Cần Thơ (bút lục số 4) và văn bản chỉ đạo của UBND TP Cần Thơ (bút lục số 5), ngày 17/04/2008 Đại tá Lê Việt Hùng - Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra có quyết định số 63 phân công Thượng tá Vũ Văn Tảo và Trung tá Nguyễn Văn Thuận - Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành điều tra vụ án “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, (bút lục số 6). Cùng ngày 17/04/2008 Đại tá Lê Việt Hùng có quyết định số 63 phân công điều tra viên điều tra vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” xảy ra tại Nông trường Sông Hậu, gồm 6 điều tra viên:


1/ Thượng tá Lê Hoàng Bé.


2/ Thiếu tá Trần Văn Dũng.


3/ Đại uý Trần Đình Kiên.


4/ Thượng uý Trương Thanh Mộng.


5/ Trung uý Phạm Thanh Quỳnh.


6/ Thượng uý Đỗ Thành Vũ.


(Bút lục số 7)


Ngày 20/01/2009 Trung tá Nguyễn Văn Thuận có quyết định số 01/QĐ.PC15 về việc tách vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Như vậy về nguyên tắc các quyết định tố tụng trong việc phân công điều tra viên của Thủ trưởng cơ quan điều tra điều tra vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” cũng được tách ra (bút lục số 8).


Cùng chung vụ án ngày 27/06/2008 Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra Trung tá Nguyễn Văn Thuận có quyết định số 03/QĐ bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội “lập quỹ trái phép”, (bút lục số 9), nhưng không có bất cứ một quyết định nào bổ sung điều tra viên điều tra vụ án “lập quỹ trái phép” vi phạm Điều 34 và 35 bộ luật tố tụng hình sự. Bởi lẽ điều tra viên chỉ được tiến hành hoạt động điều tra vụ án khi được phân công của Thủ trưởng cơ quan điều tra, trong vụ án này điều tra viên không được phân công điều tra vụ án “lập quỹ trái phép” từ Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, nên các hoạt động điều tra tiếp theo đều không hợp pháp .


b/ Tại Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự quy định nguyên đơn dân sự là “cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại … được thông báo kết quả điều tra, khiếu nại quyết định hành vi tố tụng các cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng … nguyên đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, VKS, Toà án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại”. Như vậy theo điều luật này “Nông trường Sông Hậu nay là Công ty nông nghiệp Sông Hậu” đã được xác định là nguyên đơn dân sự trong vụ án phải được đưa vào tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra - truy tố. Thực tế cho thấy, cơ quan điều tra, VKS đã không thực hiện quy định này, mãi 4 ngày trước khi xét xử Công ty nông nghiệp Sông Hậu mới có đơn gửi Toà án huyện Cờ Đỏ yêu cầu bổi thường theo cáo trạng của VKS là không bảo đảm tính hợp pháp (bút lục số 10).


c/ Tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: … người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu …”có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ” trong vụ án lập quỹ trái phép, trong Hội đồng giám định có giám định viên Nguyễn Kim Oanh vi phạm quy định này. Bởi lẽ “Nguyễn Kim Oanh” khi thanh tra Nông trường đã được phân công làm “Tổ trưởng thanh tra tài chính” trong Đoàn thanh tra Nông trường Sông Hậu (bút lục số 11). Trong khi đó Đoàn thanh tra có kết luận và chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra để tiến hành hoạt động điều tra, nên “có căn cứ rõ ràng để xác định bà Oanh có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ giám định tài chính” trong vụ án “lập quỹ trái phép”.


d/ Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “nội dung kết luận giám định phải ghi rõ thời gian địa điểm tiến hành giám định họ tên trình độ văn hoá trình độ chuyên môn của người giám định những người tham gia khi tiến hành giám định”. Tuy nhiên, tại kết quả giám định ngày 03/07/2008 (bút lục số 12) đã không chấp hành quy định này của Bộ luật tố tụng hình sự, mặt khác kết quả giám định còn vượt quá “quyết định trưng cầu giám định của cơ quan điều tra”, (bút lục số 13). Cụ thể quyết định của cơ quan cảnh sát điều tra không yêu cầu giám định trả lời “hành vi lập quỹ trái phép hay không trái phép” nhưng kết luận giám định lại ghi “đây là hành vi lập quỹ trái phép”. Như vậy giám định viên đã làm thay cơ quan điều tra, truy tố và xét xử.


Cần lưu ý rằng, trong quá trình điều tra bà Trần Ngọc Sương và Luật sư đã nhiều lần yêu cầu được thông báo hoặc cho sao chụp kết luận giám định, cũng như đề nghị trưng cầu giám định lại nhưng không được cơ quan điều tra quan tâm xem xét theo quy định tại Điều 158 Bộ luật tố tụng hình sự (bút lục số 14+15).


2/ Giai đoạn kiểm sát điều tra truy tố có những vi phạm sau đây:


a/ Ngày 20/05/2008 Viện trưởng VKSND TP Cần Thơ có quyết định số 27/QĐ.KSĐT về việc phân công kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự. Theo đó Viện trưởng phân công kiểm sát viên Nguyễn Thị Hoàng Mai Lan thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự về tội “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, (bút lục số 16).


Vụ án này như phần trên đã phân tích đã được tách ra, nên kiểm sát viên Nguyễn Thị Hoàng Mai Lan không còn nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát án hình sự trong vụ án “lập quỹ trái phép” vì không được Viện trưởng phân công nhiệm vụ này theo quy định tại Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự.


b/ Tại giai đoạn hoàn thành cáo trạng truy tố VKS TP Cần Thơ tiếp tục không xác định tư cách của nguyên đơn dân sự là Nông trường Sông Hậu (Công ty nông nghiệp Sông Hậu) vi phạm Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự đã dẫn.


3/ Giai đoạn xét xử sơ thẩm có những vi phạm sau đây:


a/ Không triệu tập giám định viên, mặc dù họ đã tiến hành giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan cảnh sát điều tra và các Luật sư cũng như bị cáo đều có yêu cầu họ có mặt tại Toà để được thẩm vấn, đối chất làm rõ vi phạm Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự.


b/ Trước khi mở phiên Toà 1 ngày (ngày 10/08/2009 Luật sư đã có văn bản thay đổi kiểm sát viên), trong tường hợp này Toà án huyện Cờ Đỏ phải chuyển văn bản cho Viện trưởng VKS cùng cấp để Viện trưởng VKS giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Điều 36 điểm g và khoản 2 Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự. Thực tế Toà án huyện Cờ Đỏ đã không thực hiện quy định này của luật (bút lục số 17).


c/ Việc TAND huyện Cờ Đỏ tự xác nhận Nông trường Sông Hậu “Công ty nông nghiệp Sông Hậu” là nguyên đơn dân sự trong vụ án, trong khi cơ quan điều tra và VKS trước đó không xác định việc này là không bảo đảm tính hợp pháp vi phạm khoản 1 Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp này TAND huyện Cờ Đỏ phải trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự.


d/ Việc TAND huyện Cờ Đỏ căn cứ Điều 104, 195, 199 của Bộ luật tố tụng hình sự để ban hành quyết định số 01/2009/HSST.QĐ về việc yêu cầu VKS huyện Cờ Đỏ khởi tố vụ án hình sự về tội “tham ô tài sản theo quy định tại Điều 278 để tiến hành điều tra và khởi tố bị can” là hoàn toàn bất hợp pháp vi phạm nghiêm trọng các quy định của Bộ luật  tố tụng hình sự quy định về vấn đề này đó là:


- Quyết định số 01/2009/HSST.QĐ của Toà án huyện Cờ Đỏ (bút lục số 18) đã không được tống đạt cho bị cáo Trần Ngọc Sương theo quy định tại Điều 50 điểm 2 tiết a Bộ luật tố tụng hình sự.


- Theo quy định tại Điều 104 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự thì “HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên Toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”


Thực tế cho thấy “hành vi tham ô” mà HĐXX yêu cầu VKS huyện Cờ Đỏ khởi tố không phải là hành vi phạm tội mới hoặc người phạm tội mới, mà hành vi này đã được cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ điều tra theo yêu cầu tại quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 116/QĐ.KSĐT ngày 11/03/2009 của VKS TP Cần Thơ (bút lục số 19). Quyết định này nêu rõ “cần xác định rõ các bị can có hành vi tham ô tài sản trong số tiền lập quỹ trái phép hay không để xử lý chung vụ án” cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố  trong kết luận điều tra bổ sung số 08 ngày 08/05/2009 đã trả lời cho VKS thành phố là không có căn cứ, chỉ cần buộc hoàn trả trách nhiệm dân sự (bút lục số 19a). Sau đó VKS đã đưa vào truy tố phần này trong tội danh “lập quỹ trái phép”, (bút lục số 20 cáo trạng VKS huyện Cờ Đỏ).


Do đó, HĐXX TAND huyện Cờ Đỏ không thể ban hành quyết định yêu cầu VKS huyện Cờ Đỏ khởi tố vụ án về một hành vi đã được cơ quan cảnh sát điều tra cấp trên điều tra và kết luận dưới sự kiểm sát điều tra của VKS TP Cần Thơ.


Khi ban hành quyết định số 01.2009/HSST/QĐ ngày 15/08/2009 HĐXX Toà án huyện Cờ Đỏ đã bất chấp “thẩm quyền điều tra vụ án của cơ quan điều tra”. Cụ thể là: theo quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự đã quy định về tội tham ô.


Khoản 4 “phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù hai mươi năm tù chung thân hoặc tử hình…”


a. Chiếm đoạt tài sản từ 500.000.000đ(Năm trăm triệu đồng trở lên) Theo bản án sơ thẩm của TAND huyện Cờ Đỏ nhận định số tiền 850 triệu chuyển nhượng đất và 301.073.333đ trả tiền mua đất có dấu hiệu tham ô. Tức là rơi vào khoản 4 tiết a Điều 278 Bộ luật hình sự, do đó thẩm quyền điều tra vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra cấp quận huyện. Bởi lẽ cơ quan này theo quy định chỉ được điều tra các vụ án hình sự có mức hình phạt từ 15 năm tù trở xuống. Do đó HĐXX yêu cầu VKS huyện Cờ Đỏ khởi tố vụ án hình sự để tiến tới khởi tố bị can về hành vi tham ô là bất hợp pháp vi phạm thẩm quyền điều tra vụ án hình sự và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.


- Khi ban hành quyết định số 01/HSST/2009 HĐXX TAND huyện Cờ Đỏ đã vi phạm Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự về “giới hạn của việc xét xử”. Cụ thể, tại phiên Toà VKS rút một phần quyết định truy tố về tội danh “lập quỹ trái phép” đối với 2 khoản tiền nêu trên. Trong trường hợp này HĐXX  chỉ có quyền xác định việc rút truy tố có đúng hay không đúng, chứ không có quyền xác định phần rút truy tố của VKS là phần tiền “tham ô tài sản” để đưa vào nghị án rồi ban hành quyết định số 01/HSST/2009  là vi phạm nghiêm trọng Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự.


e/ Theo quy định tại Điều 199 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự “về việc ra bản án và quyết định của Toà án” thì trong trường hợp quyết định thay đổi thành viên HĐXX kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ điêu tra vụ án, bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo mới phải thảo luận và thông qua tại Phòng nghị án và phải được lập thành văn bản. Thực tế cho thấy HĐXX không chấp nhận yêu cầu xin thay đổi kiểm sát viên của bị cáo Trần Ngọc Sương, nên trong trường hợp này căn cứ khoản 3 Điều 199 HĐXX chỉ thảo luận và thông qua tại Phòng xử án và không lập thành văn bản chỉ ghi vào bút ký phiên Toà. Thc tế HĐXX Toà án huyện Cờ Đỏ lập một “biên bản nghị án”, (bút lục số 21) sau đó ban hành một quyết định về việc thay đổi kiểm sát viên (bút lục số 22) mà nội dung là không thay đổi kiểm sát viên là vi phạm điều luật nêu trên cũng như Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự về nghị án. Theo đó “biên bản nghị án phải được tất cả các thành viên HĐXX ký tại Phòng nghị án trước khi tuyên án”, không có điều luật nào của Bộ luật tố tụng hình sự cho phép HĐXX nghị án trước khi thẩm vấn như HĐXX Toà án huyện Cờ Đỏ đã làm. Toà án huyện Cờ Đỏ còn lập một biên bản nghị án thứ 2 (bút lục số 21a), như vậy HĐXX Toà án huyện Cờ Đỏ đã lập 2 biên bản nghị án trong cùng một vụ án.


4/ Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, cụ thể:


a/ Không triệu tập giám định viên theo quy định tại Điều 158 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự, trong khi đó kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Sương có liên quan đến kết quả giám định và giám định viên.


b/ Toà án cấp phúc thẩm không giải quyết hết các yêu cầu kháng cáo, kháng cáo bổ sung của bị cáo Trần Ngọc Sương theo đúng quy định tại Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc thẩm. Cụ thể là:


Theo đơn kháng cáo, kháng cáo bổ sung lần 1 và kháng cáo bổ sung lần 2 (bút lục số 23+24+25) bà Ba Sương đã kháng cáo 2 vấn đề chính.


Thứ nhất: Kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện Cờ Đỏ (kháng cáo và kháng cáo bổ sung lần 1).


Thứ 2: Kháng cáo quyết định số 01/2009/HSST.QĐ của HĐXX TAND huyện Cờ Đỏ “về việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự”, (kháng cáo bổ sung lần 2).


Nhưng tại bản án hình sự phúc thẩm số 137/HSPT ngày 19/11/2009 Toà án TP Cần Thơ chỉ xét xử phần kháng cáo thứ nhất, mà không xét xử kháng cáo phần thứ 2 của bị cáo Trần Ngọc Sương.


Thứ 3: Căn cứ đơn kháng cáo bổ sung lần 1, bà Trần Ngọc Sương kháng cáo phần 1.560.000.000đ bà đã trả cho Nông trường trước khi nghỉ hưu để thanh toán các khoản tiền mà bà đã tạm ứng còn thiếu. Toà án cấp sơ thẩm chỉ trừ 550.000.000đcòn lại 1.010.000.000đ để ở đâu? phần kháng cáo này Toà án cấp phúc thẩm TAND TP Cần Thơ đã không xem xét và không đưa vào bản án phúc thẩm là vi phạm Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự.


Tóm lại: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều có những vi phạm hết sức nghiêm trọng các quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy vụ án cần phải được xem xét lại toàn bộ theo trình tự giám đốc thẩm.


II. Về nội dung: Việc án sơ thẩm và phúc thẩm tuyên bị cáo Trần Ngọc Sương phạm tội “lập quỹ trái phép” với mức án 8 năm tù giam và bồi thường trên 4,3 tỷ đồng là không bảo đảm các căn cứ pháp lý vững chắc. Bởi các lý do như sau:


Thứ nhất: Bà Trần Ngọc Sương không phải là người quyết định thành lập quỹ, bằng chứng là:


- Kết luận điều tra vụ án của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố (bút lục số 26) ghi nhận:


“Trong quá trình điều tra đã phát hiện thời gian từ năm 1994 đến năm 2007 Giám đốc Nông trường Sông Hậu chỉ đạo thủ quỹ, kế toán thu chi các nguồn đưa vào quỹ trái phép tổng số 29.384.772.758đ, trong đó:


Giai đoạn 1: Từ năm: 1994 - 1999 (20 tỷ, tính số tròn).


Giai đoạn 2: Từ năm: 2001 - 2007 (9 tỷ, tính số tròn)”.


Như vậy, chính cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố đã xác định quỹ đời sống (còn gọi là quỹ công đoàn) ở Nông trường Sông Hậu được lập từ năm 1994 và người lập ra quỹ này là cố Giám đốc Trần Ngọc Hoằng, chứ không phải bà Ba Sương.


Thứ 2: Thời điểm lập quỹ năm 1994 có phải là quỹ trái phép, theo quy định tại quyết định số 25CP ngày 21/01/1981 của Hội đồng chính phủ về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh thì việc lập quỹ tại Nông trường Sông Hậu từ khi thành lập năm 1979 đến năm 1994 là hoàn toàn hợp pháp. Bởi lẽ phần trích để lập quỹ không nằm trong kế hoạch sản xuất chính của Nông trường (thời điểm này là trồng lúa) mà nằm ở phần sản xuất phụ của Nông trường, quyết định 25CP ghi rõ: Đối với sản xuất phụ.


Phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp các loại thuế và thu quốc doanh theo chế độ được phân phối như sau:


- Nộp ngân sách Nhà nước 15%.


- Xí nghiệp được sử dụng 85% trong đó sử dụng quỹ phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi tập thể theo tỷ lệ do Giám đốc xí nghiệp bàn bạc thoả thuận với công đoàn quyết định (bút lục số 27 quyết định 25CP).


Tại kết luận điều tra và cáo trạng cũng như bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều không chứng minh được đến thời điểm bà Ba Sương làm Giám đốc thì quyết định 25CP còn có hiệu lực hay không, văn bản pháp luật nào thay thế quyết định 25CP của chính phủ.


Thứ 3: Về nguồn tiền lập quỹ, theo kết luận điều tra và cáo trạng của VKS thành phố, bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định các nguồn sau đây:


1/ Thu từ nguồn bán Bạch Đàn    (2 tỷ, tính số tròn).


2/ Thu thuế đìa cá                      281 triệu.


3/ Thu nguồn cho thuê đất          38 triệu.


4/ Thu nguồn quản lý máy           673 triệu.


5/ Thu nguồn quản lý điện           149 triệu.


Ngoài ra còn những khoản khác như bán ao cá Bác Hồ, tiền chăn nuôi, khấu hao, hoa hồng mua bảo hiểm, tiền vay ngoài, cho thuê mặt bằng …


Tổng cộng các nguồn thu trên 3.336.000.000đ (tính số tròn).


Rõ ràng tất cả các nguồn thu nêu trên đều không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước hoặc từ hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại chính của Nông trường Sông Hậu, mà chủ yếu từ công sức của cán bộ công nhân viên Nông trường làm thêm (trồng Bạch Đàn) , nuôi cá … hoặc tận dụng các sản phẩm phế liệu trong quá trình sản xuất, không có gây thiệt hại gì cho nguồn vốn ngân sách cấp cho Nông trường hoặc nguồn vốn hoạt động  của Nông trường Sông Hậu. Nên không thể xem là nguồn thu bất hợp pháp.


Thứ 4:  về việc chi, theo kết luận điều tra, cáo trạng và án sơ thẩm, phúc thẩm kết luận việc chi từ nguồn quỹ gây thiệt hại cho Nông trường trên 4,3 tỷ đồng là không có căn cứ pháp lý. Bởi lẽ:


1/ Trong số tiền 4,3 tỷ đồng có trên 2,2 tỷ đồng là chi phí cho công tác tiếp xúc thương mại chung của tập thể cán bộ công nhân viên, theo đó bà Trần Ngọc Sương là người ký xác nhận công tác mà không ký chứng từ chi tiền. Mặt khác phần chi công tác này nhằm hỗ trợ thêm cho Nông trường khi nguồn vốn của Nông trường không đủ để kịp thời đáp ứng nhu cầu công tác.


2/ Phần tiền chi cho sinh nhật, mua nhà hỗ trợ khó khăn (lương kiêm nhiệm) cho Giám đốc, Phó Giám đốc Nông trường hoàn toàn do công đoàn quyết định. Không có sự tham gia của bà Trần Ngọc Sương, việc chi cho các khoản trên cũng phù hợp với pháp luật và đạo lý. Cụ thể:


a/ Nguồn chi trả tiền mua nhà cho bà Trần Ngọc Sương của Ban chấp hành công đoàn phù hợp với quy định tại quyết định số 118/TTg ngày 27/02/1996 của Thủ tướng chính phủ (bút lục số 28). Theo đó, Anh hùng lao động “được hỗ trợ toàn bộ tiền sử dụng đất đối với nhà ở một tầng”.


Căn nhà 28 đường Đinh Tiên Hoàng lẽ ra như quyết định bán nhà UBND TP Cần Thơ phải căn cứ quyết định trên của chính phủ để miễn tiền  đất cho bà Ba Sương. Nhưng Uỷ Ban thành phố không làm, công đoàn Nông trường Sông Hậu thay mặt chính quyền thực hiện quyết định của Thủ tướng là đúng pháp luật, hợp đạo lý.


b/ Nguồn chi quà sinh nhật, sổ tiết kiệm trong suốt 7 năm mà công đoàn quyết định cho bà Ba Sương cho đến nay luật pháp chưa coi các khoản chi và nhận này là tội phạm. Đó là chưa nói đến việc nhận quà sinh nhật của bà cũng chỉ bằng với số tiền  thưởng “người phụ nữ ấn tượng Châu Á Thái Bình Dương trị giá 10.000 USD”, bà cũng đã đem tặng lại các trẻ em tàn tật, nghèo khó trên địa bàn TP Cần Thơ. Chúng ta buộc tội bà Ba Sương về khoản tiền quà cáp, sinh nhật quả là bất nhẫn đối với bà.


c/ Nguồn chi mà Ban chấp hành công đoàn chi trợ cấp khó khăn cho gia đình Phó Giám đốc (Lâm) và con gái nuôi của ông Trần Ngọc Hoằng sau khi hai ông qua đời (trên sổ quỹ ghi là tiền lương kiêm nhiệm) là một khoản chi đầy trách nhiệm và có tính nhân đạo nhân nghĩa rất cao theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Cơ quan điều tra, VKS và Toà án coi là tội phạm để truy tố khoản tiền này thì thật sự là đau đớn cho bị cáo.


Tóm lại: Quỹ đời sống (hay còn gọi là quỹ công đoàn ở Nông trường Sông Hậu) đã được thành lập theo quyết định 25CP ngày 21/01/1981 của chính phủ. Đây là vấn đề lịch sử để lại, nên không phải là quỹ trái phép và quỹ này do công đoàn quản lý chứ không do Giám đốc Nông trường quản lý. Bà Ba Sương cũng không có chức vụ gì trong Ban chấp hành công đoàn, có chăng thiếu sót của bà Ba Sương là khi có chính sách mới trong quản lý kinh tế đối với Doanh nghiệp Nhà nước trong việc điều chỉnh các loại quỹ, bà đã không nắm bắt được để yêu cầu ban chấp hành công đoàn chuyển đổi cho phù hợp. Mặt khác việc chi phí số tiền nêu trên, thực tế không gây thiệt hại cho Nông trường mà còn hỗ trợ thêm cho Nông trường trong việc chi phí công tác xúc tiến thương mại, chi hỗ trợ nhà ở, ma chay, ốm đau, gia đình khó khăn, tiệc cưới, sinh nhật …mang tính chất xã hội hoá rộng rãi mà không ảnh hưởng đến ngân sách. Nên buộc tội bà Ba Sương về tội danh “lập quỹ trái phép” là quá nghiêm khắc không cần thiết, đặc biệt đối với người phụ nữ không chồng, không con, không tài sản đã hiến dâng toàn bộ sức lực tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp xây dựng nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.


Trước, trong và sau khi bản án phúc thẩm tuyên án 8 năm tù giam đối với bà Ba Sương đã tạo nên một hiệu ứng xã hội chưa từng có trong lịch sử nền tư pháp XHCN của chúng ta. Theo đó hầu hết ý kiến của quần chúng, trí thức, sinh viên, nông dân, cán bộ lão thành cách mạng, đại biểu Quốc hội và nhiều cán bộ lãnh đạo đương chức của Đảng, Nhà nước, Quốc hội chính phủ, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, công luận báo chí đều có nguyện vọng và đề nghị VKS tối cao -TAND tối cao xem xét lại toàn bộ vụ án để quyết định thân phận của một “phụ nữ Anh hùng”, trong những năm tháng tuổi già đầy bệnh tật, đau đáu một nỗi lo cho người nông dân, mà không lo gì cho cá nhân mình (đính kèm công văn MTTQ Việt Nam và thư của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt),(bút lục số 29+30+31). Việc bản án sơ thẩm buộc bà Trần Ngọc Sương bồi thường 4,3 tỷ đồng, trong khi đó HĐXX hoàn toàn biết rõ bà không có khả năng thi hành quyết định này của Toà án cũng là một vấn đề mà Luật sư mong rằng Toà án tối cao - VKS tối cao xem xét. Bởi lẽ bản án xem việc phạm tội lập quỹ là “có tổ chức” nhưng phần dân sự chỉ bắt 1 người bồi thường là không đúng pháp luật.


Mặt khác, khi xem xét vụ án lập quỹ trái phép tại Nông trường Sông Hậu, Luật sư trân trọng đề nghị VKS tối cao, Toà án tối cao xem xét đến vụ việc và tính công bằng của pháp luật. Cụ thể, ở TP Cần Thơ có vụ án tương tự ở Phòng quản lý đô thị quận Ninh Kiều lập quỹ trái phép 7,2 tỷ đồng đã được VKS quận đình chỉ điều tra xử lý hành chính (bút lục số 32+33). Do đó, Luật sư kính mong VKS tối cao – Toà án tối cao xem xét để bảo đảm sự công bằng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.


Từ những lý do nêu trên, căn cứ Điều 273 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Chánh án TAND tối cao - Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm của TAND TP Cần Thơ để giải quyết vụ án theo trình tự giám đốc thẩm. Huỷ bản án phúc thẩm của TP Cần Thơ và bản án sơ thẩm của Toà án huyện Cờ Đỏ, đồng thời tuyên bố bà Sương không phạm tội lập quỹ trái phép đình chỉ vụ án.


Trân trọng.


CHI NHÁNH VĂN PHÒNG LUẬT SƯ


VẠN LÝ TẠI TP.HCM


TRƯỞNG CHI NHÁNH


(đã ký)


                                               LS: Nguyễn Trưng Thành