Bài bào chữa vụ án "Tham ô tài sản"

Facebook Google+ Email

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-------o0o--------

 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ

58C Hùng Vương – Phường Thới Bình.

Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ.

ĐT: (0710) 3822490 – DĐ: 0913.870099

Website: www. vanly.com.vn

-------------------------------------------------------------------------

 

BÀI BÀO CHỮA VỤ ÁN “THAM Ô TÀI SẢN”

 

Kính gửi:  HỘI ĐỒNG XÉT XỬ TAND TỈNH VĨNH LONG.

 

Tôi: Luật sư Nguyễn Trường Thành là người bào chữa cho 02 bị cáo Huỳnh Quốc Trung và Nguyễn Thành Nhân bị VKSND tỉnh Vĩnh Long truy tố về tội “Tham ô tài sản” xảy ra tại Phòng công thương huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Theo đó Nguyễn Thành Nhân bị truy tố theo khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999, Huỳnh Quốc Trung bị truy tố theo khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999.

Sau khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, gặp và trao đổi với các bị cáo.

Sau khi nghe kết quả thẩm vấn công khai và nghe kết luận của đại diện VKS tại phiên tòa, quan điểm của tôi về vụ án như sau:

I/ VỀ TỐ TỤNG.

Quá trình điều tra và truy tố đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thể hiện.

1/ Vi phạm quyền được nhờ ngừi bào chữa, được chỉ định Luật sư bào chữa của bị cáo Nhân, cụ thể là (Khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự):

- Nhân bị khởi tố về tội “Tham ô tài sản” theo khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 có mức hình phạt là tử hình thuộc trường hợp phải chỉ định Luật sư trong giai đoạn điều tra hồ sơ phản ánh cơ quan điều tra có chỉ định luật sư bào chữa, đoàn luật sư có phân công luật sư Lôi Thị Dung bào chữa cho ông Nhân. Lời khai tại tòa bị cáo Nhân xác định điều tra viên điều tra vụ án hù dọa bị cáo từ chối luật sư Dung với lý do “Luật sư Dung bào chữa không tội cũng có tội – tội nhẹ thành tội nặng” nên yêu cầu ông Nhân từ chối luật sư, luật sư Lôi Thị Dung đã xé thủ tục bào chữa ngay tại nơi làm việc với bị cáo. Từ đó đến khi có kết luận điều tra bị cáo đã không có luật sư bào chữa cho mình, cơ quan điều tra cũng không chỉ định tiếp luật sư khác đến khi được tại ngoại. Qua giới thiệu của anh Kết công tố viên buộc tội tại tòa ngày hôm nay bị cáo mới nhờ được luật sư, luật sư này lại yêu cầu bị cáo nhận tội trong khi bị cáo thấy mình không có tội nay người giới thiệu Luật sư lại ngồi ghế công tố buộc tội liệu có còn vô tư và khách quan. Trong phần thủ tục HĐXX cũng không hỏi luật sư, bị cáo có yêu cầu thay đổi thành viên HĐXX hay không, nên chúng tôi không có điều kiện để đề nghị thay đổi ông Kết công tố viên ngày hôm nay?

2/ Không cho tiến hành đối chất với các chủ thầu xây dựng, giữa bị cáo Nhân với các nhà thầu xây dựng (Về 42 hợp đồng quy buộc là khống) trong khi lời khai các chủ thầu đã xác nhận và khai tại tòa là Công ty bị cáo có trực tiếp quản lý và giám sát công trình xây dựng, không cho đối chất giữa bị cáo Trung với các nhà thầu để làm rõ việc “Đánh giá hồ sơ năng lực”. tại tòa nhiều nhân chứng vắng mặt HĐXX không thể thẩm tra đối chất các chứng cứ có liên quan đến lời khai của họ để gỡ tội cho bị cáo Trung.

3/ Xác định tư cách tham gia tố tụng không đầy đủ, cụ thể là không xác định tư cách của các bị đơn dân sự bởi lẻ theo cáo trạng VKS thì những cơ quan, đơn vị, cá nhân đã nhận tiền từ Phòng công thương nhưng khi xác định họ chỉ là người liên quan. Hoặc nhân chứng chứ không phải bị đơn dân sự là không đúng bản chất vụ việc các cá nhân đơn vị này đều không có mặt tại phiên tòa để làm rõ trách nhiệm của họ. Bị cáo Giao Chi lại có yêu cầu thu hồi toàn bộ số tiền này.

4/ Không đưa kho bạc nhà nước huyện vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan là không đầy đủ bởi các nguồn tiền chi trả đều do kho bạc nhà nước quản lý. Kho bạc chuyển thanh toán trực tiếp cho các công ty, nhà thầu khi có đủ thủ tục hợp pháp nên họ phải có mặt tại tòa để làm rõ.

5/ Nguyên đơn dân sự là UBND huyện đại diện theo ủy quyền thì không biết gì về vụ việc theo xác nhận tại phiên tòa, hồ sơ vụ án không có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo đó “nguyên đơn dân sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức đơn vị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

6/ Theo cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 13/04/2017 của VKSND tỉnh Vĩnh Long truy tố các bị cáo theo điểm c,d khoản 2 điểm a khoản 4 Bộ luật hình sự năm 1999 là không đúng, vì Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 trong đó có tội tham ô.

7/ Quá trình điều tra không đầy đủ mà không bổ sung tại tòa cụ thể là theo Thông tư số 10 năm 2011 của Bộ tài chính, cán bộ Phòng công thương làm kiêm nhiệm Ban quản lý dự án được hưởng tối thiểu 50% lương cơ bản và tối đa 100% lương cơ bản, ít nhất 5 người ở Phòng công thương làm nhiệm vụ này bao gồm trưởng phòng, phó phòng và 3 cán bộ kỷ thuật họ làm việc từ năm 2008 đến khi Ban quản lý dự án của huyện giải thể. Đến năm 2016 mà không được thanh toán tiền kiêm nhiệm theo Thông tư số 10-2011/BTC của Bộ tài chính, do vậy cần điều tra làm rõ tổng số tiền mà họ được hưởng là bao nhiêu để khấu trừ vào thiệt hại của vụ án nếu có.

II/ VỀ NỘI DUNG.

1/ Truy tố bị cáo Nhân về tội tham ô tài sản là không có căn cứ, bởi các chứng cứ sau:

Thứ nhất: Bị cáo Nhân không phải là người có chức vụ quyền hạn tại Phòng công thương, không trực tiếp quản lý tài sản bị coi là chiếm đoạt. VKS cho rằng bị cáo đồng phạm giúp sức cho bị cáo Chi và Sơn chiếm đoạt tài sản với vai trò đồng phạm là không chính xác. Bởi các lý do sau đây:

- Kết quả điều tra xác định: Bị cáo Nhân có hợp đồng với Phòng công thương trong việc phân chia tiền quản lý công trình theo quy định tại Thông tư số 10 Bộ tài chính phần tiền quản lý công trình này được pháp luật quy định cho phép được hưởng, việc ký phụ lục hợp đồng là đại diện pháp nhân với chủ đầu tư không phải giữa cá nhân với cá nhân.

- Bị cáo Nhân chuyển tiền là chuyển cho tập thể Phòng công thương, cơ quan Phòng công thương theo hợp đồng và giấy giới thiệu của Phòng công thương không phải chuyển tiền cho cá nhân bị cáo Chi và bị cáo Sơn nên không thể coi là đồng phạm giúp sức.

- Các bị cáo Sơn và Chi không chiếm đoạt khoản tiền mà Công ty Tam Bình chuyển cho Phòng công thương mà chủ yếu chi cho công việc cơ quan theo cáo trạng và kết luận điều tra ghi nhận tại trang 3, trang 4, trang 5 của cáo trạng.

- Bị cáo Nhân không có chiếm đoạt tài sản của nhà nước bằng chứng là kết luận điều tra và cáo trạng VKS ghi nhận toàn bộ số tiền thu được từ 85 hợp đồng dịch vụ với Phòng công thương đều nộp về tài khoản Công ty, theo đó đã sử dụng đóng thuế GTGT, TNDN chia cổ tức cho các cổ đông trong đó có UBND huyện.

- Cổ đông nắm cổ phần chi phối 51% tại Công ty.

- Thanh toán công tác phí cho các cá nhân tham gia quản lý dự án.

Việc thu chi nêu trên đã đươc cơ quan thuế xác định là đúng pháp luật, có khấu trừ thuế (Có kết luận của cơ quan thuế).

Việc thu chi nêu trên đã được cơ quan kiểm toán độc lập xác định là hợp pháp.

Tóm lại kết quả điều tra và cáo trạng kết luận của VKS tại tòa không chứng minh được bị cáo chiếm đoạt tài sản hoặc giúp sức cho bị cáo Sơn, Chi chiếm đoạt tài sản nhà nước phù hợp với lời khai của Trưởng phòng tài chính tại phiên tòa. Nhà nước không mất tiền vì toàn bộ đã được UBND huyện phê duyệt quyết toán theo đúng quy định của pháp luật. Nếu bị cáo phạm tội thì hậu quả pháp lý cần phải giải quyết là:

a/ Cơ quan thuế hoàn lại thuế TNDN và thuế GTGT.

b/ UBND huyện phải hoàn lại số tiền cổ tức được hưởng.

c/ Hủy toàn bộ các hồ sơ đã quyết toán, để quyết toán lại.

d/ Các cá nhân đã nhận tiền công tác phí từ Công ty Tam Bình hoàn lại tiền cho Công ty Tam Bình để Công ty Tam Bình hoàn lại tiền cho kho bạc nhà nước. Các vấn đề này chưa được điều tra và thẩm vấn tại tòa. Do vậy không có căn cứ để buộc tội bị cáo Nhân về tội “Tham ô” như kết luận của VKS

2/ Đối với bị cáo Trung.

Chứng cứ để VKS buộc tội là lời khai của bị cáo Sơn về việc cho rằng các hợp đồng ký với Phòng công thương là hợp đồng khống và bị cáo Trung có ăn chia tiền với bị cáo Sơn, kết luận của VKS là không có căn cứ pháp lý bởi các căn cứ sau đây:

1/ Nguyễn Khắc Lâm Sơn chỉ là cán bộ kế toán ở Phòng công thương không có thẩm quyền để đề nghị giải ngân ở kho bạc nhà nước (Thẩm quyền này thuộc bị cáo Giao Chi), do vậy bị cáo Sơn nếu có chiếm đoạt 200 triệu bị cáo nhận từ Công ty Tân Bình thì hành vi đó là “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2/ Bị cáo Trung không phải là chủ thể của tội tham ô tài sản bởi vì không có chức vụ quyền hạn liên quan đến việc quản lý tài sản nhà nước, nếu dùng hồ sơ khống để rút tiền từ kho bạc nhà nước thì cũng chỉ là hành vi “Gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

3/ Không có căn cứ để xác định Trung và Sơn ăn chia số tiền theo hợp đồng, bởi lời khai Sơn không có tài liệu chứng cứ nào để chứng minh lời khai mâu thuẩn lúc khai có biên nhận, lúc khai không có biên nhận, không biết số tiền mỗi lần nhận là bao nhiêu, thời gian nhận tiền không xác định được. Bị cáo Trung không thừa nhận đã đưa tiền cho bị cáo Sơn.

4/ Công ty Tân Bình là pháp nhân có chức năng, thực hiện hợp đồng với Phòng công thương Tân Bình thực tế lời khai của Sơn, Chi và các nhà thầu xác nhận Công ty có làm hồ sơ đánh giá năng lực cho các nhà thầu. Trong đó có hồ sơ trước khi chỉ định thầu, hồ sơ sau khi chỉ định thầu vì là công trình ứng trước vốn của nhà thầu xây dựng để tiến hành xây dựng trước, chỉ định thầu sau khi có tiền ngân sách bố trí vốn mới bổ sung hồ sơ đánh giá năng lực nhà thầu. Điều này Luật xây dựng không cấm, để có hồ sơ đánh giá năng lực phải có hai giai đoạn:

1/ Giai đoạn 1: Thành lập thẩm định hồ sơ năng lực của nhà thầu.

2/ Giai đoạn 2: Đánh giá hồ sơ yêu cầu của nhà thầu.

Lời khai của Sơn, Chi, Trung và các nhà thầu đều xác nhận và hồ sơ phản ánh 30 hợp đồng giữa Công ty Tân Bình với Phòng công thương đều có các hồ sơ kèm theo không phải là hồ sơ khống như kết luận của VKS (Nếu Sơn, Tâm, Trung và các nhà thầu không thành lập hồ sơ đánh giá và hồ sơ yêu cầu thì làm gì có các hồ sơ đso để cơ quan điều tra thu hồi khi điều tra vụ án.

Tóm lại: Về tố tụng quá trình điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, điều tra chưa đầy đủ xác định sai tội danh đối với một số bị cáo. Nên đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Nếu HĐXX không trả hồ sơ đề nghị tuyên các bị cáo Nhân và bị cáo Trung không phạm tội tham ô tài sản trả tự do và khôi phục quyền lợi hợp pháp cho các bị cáo.

Trân trọng.

 

Luật sư: Nguyễn Trường Thành