Nông trường Sông Hậu: Mô hình cần phát triển bền vững và nhân rộng

Facebook Google+ Email

L.T.S: Nông trường Sông Hậu (tên giao dịch là Sohafarm) được thành lập ngày 20-4-1979, trên cơ sở Nông trường Quyết Thắng của quân đội bàn giao địa phương. Hơn 28 năm qua, từ vùng hoang lầy, trên đất ngập phèn lung, đìa, bưng, trấp với diện tích gần 7.000ha, nay đã trở thành Trung tâm sản xuất nông nghiệp tập trung công nghệ cao, với 3.142 hộ dân và 14.061 nhân khẩu. Đây là mô hình sản xuất và kinh doanh nông nghiệp tập trung, công nghệ cao rất cần phát triển ngày càng hoàn chỉnh để nhân rộng, đặc biệt là khi đất nước đã gia nhập WTO.

Sau “Diễn đàn kinh tế đồng bằng sông Cửu Long” vừa được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, phóng viên báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với bà Trần Ngọc Sương, Anh hùng Lao động, Giám đốc nông trường Sông Hậu về những thành quả cũng như tồn tại cần khắc phục và sự mở hướng trong tương lai.

- Thưa bà, có thể nói khái quát nhất về nông trường trong hơn 28 năm qua như thế nào?

- Để tương đối khách quan, tôi xin dùng chính lời của ông Nguyễn Thanh Sơn-Phó chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ, đã trả lời báo giới: Nông trường Sông Hậu đang gặp khó khăn do chuyển đổi cơ chế, tuy nhiên làm ăn vẫn hiệu quả. Khó khăn chủ yếu do sử dụng vốn vay ngắn hạn đầu tư các công trình dài hạn và bởi trong suốt một quá trình dài, nông trường phải lo công tác xã hội quá nặng nề. Từ ngày thành lập năm 1979 đến năm 2003, nông trường vừa khai phá đất hoang, phát triển sản xuất kinh doanh, vừa xây dựng một vùng nông thôn điển hình bảo đảm cuộc sống cho hơn 3.000 hộ dân. Mới đây, thành phố Cần Thơ đã thành lập đoàn thanh tra để giúp nông trường phát triển trong thời kỳ mới… nhất là giai đoạn từ năm 1993 đến nay...

Bà Trần Ngọc Sương, Anh hùng Lao động, Giám đốc nông trường Sông Hậu(ảnh internet)

Từ tháng 1 năm 2004, để nông trường tập trung vào sản xuất kinh doanh, tại đây đã thành lập xã Thới Hưng, một xã mới trên toàn bộ diện tích đất và 100% dân số là những hộ lao động nhận khoán đất của nông trường, vấn đề sản xuất, kinh doanh và chăm lo đời sống nhân dân đặt ra nhiều quy hoạch, kế hoạch mới hơn. Trong bối cảnh ấy, nông trường càng thấy cái gánh trách nhiệm nặng nề hơn.

Trong bản kết luận thanh tra số 28/KLTTr- UBND ngày 7-5-2007 có nêu lên những mặt mạnh của nông trường Sông Hậu: Quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, nông trường mạnh dạn áp dụng cơ chế khoán phù hợp, thu hút được nông dân vào sản xuất. Nông trường đã phát huy được tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn đào kênh, xây dựng điện, đường, trường, trạm và thau chua, rửa phèn, làm “ngọt hóa” đất canh tác, đưa diện tích canh tác từ chỗ trồng lúa khó khăn, năng suất bấp bênh đến làm được một vụ lúa, nâng một vụ lên hai vụ, năng suất bình quân trên 10 tấn/ha. Chỉ tính từ năm 2000 đến năm 2005 đã đóng thuế cho Nhà nước 14 tỉ 700 triệu đồng, trở thành một mô hình nông trường quốc doanh phát triển mạnh nông - lâm nghiệp trong cả nước.

Nhưng bên cạnh những mặt mạnh trong xu thế phát triển bền vững, nông trường vẫn còn những mặt yếu kém như một số khoản nợ ngân hàng chưa trả hết, chính sách khoán trong nông nghiệp và quản lý đồng vốn chưa chặt chẽ, rồi còn sai quy định chỗ này, tùy tiện vận dụng chỗ kia, một số khoản thu, chi và sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn chưa đúng quy định lưu trữ, bảo quản...

Chúng tôi quan niệm đó cũng là sự bình thường trong quá trình phát triển. Một số điểm kết luận còn thiếu khách quan khi đánh giá, xem xét về nông trường, chúng tôi đang tiếp tục giải trình và khiếu nại.

- Bà có thể nói rõ hơn những khó khăn, vướng mắc chính mà nông trường đã trải qua?

- Các nông trường ở từng địa phương khác nhau đều được đầu tư cơ bản với các mức độ khác nhau. Riêng chúng tôi phải tự lực ngay từ những ngày đầu, với vốn vay ngân hàng 100%. Chúng tôi cũng được ngân sách cấp cho một phần nhưng rất nhỏ, tính ra chỉ khoảng 8% tổng số vốn. Cụ thể trong các năm từ 1979 đến 1992 được 64 triệu đồng, năm 1997 được 600 triệu đồng. Đặc biệt năm 1993, khi xảy ra chuyện đòi đất của một số hộ dân (có bằng khoán của chế độ cũ cấp), tỉnh có chủ trương “bồi hoàn thành quả lao động” cho họ, nhưng Nông trường phải đi vay ngân hàng 16,768 tỷ đồng với lãi suất lúc đó là 30%/năm để trả cho họ (do phải vay với nội dung sản xuất- kinh doanh, chứ nói vay để đền bù đất đai thì là phạm luật và ngân hàng không cho vay). Mãi đến 10 năm sau, nghĩa là vào năm 2002, nông trường mới được Nhà nước đền bù tiền nợ gốc để trả ngân hàng là 16,225 tỷ đồng (vẫn còn thiếu hơn 300 triệu đồng). Còn tiền lãi phát sinh từ 1993 đến cuối 2003 là hơn 46 tỷ đồng, chúng tôi mới trả được 23 tỷ đồng, hiện vẫn còn tồn đọng hơn 20 tỷ đồng.

Vào tháng 1-2004, ra đời xã Thới Hưng trên toàn bộ diện tích đất và 100% dân số là những hộ lao động nhận khoán đất của nông trường. Trước đó suốt 24 năm (từ năm 1979 đến cuối năm 2003), nông trường đã làm thay Nhà nước việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội (điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế...) và các hoạt động văn hóa, xã hội, các đoàn thể mà không được cấp ngân sách. Năm 2004, khi thành lập xã Thới Hưng, nông trường đã bàn giao các công trình phúc lợi về cho địa phương, nhưng đến giờ vẫn chưa nhận được tiền bồi hoàn của địa phương (khoảng hơn 42,676 tỷ đồng) để có thể trả cho ngân hàng và trả cho phần huy động của cán bộ, công nhân và bà con nông trường viên. Năm 2004, kiểm toán Nhà nước đã xác nhận và khẳng định các khoản chi này Nhà nước phải thanh toán cho nông trường, không nên để nông trường phải gánh nợ kéo dài.

- Với cương vị là giám đốc nông trường, bà có sợ trong quá trình tổ chức sản xuất, kinh doanh không những hiệu quả thấp mà còn bị găm nợ quá nhiều không?

- Có chứ! Ai mà không sợ bị nợ nần. Nhất là trong sản xuất, kinh doanh phải coi trọng hạch toán đầu vào, đầu ra, tính toán từng đồng vốn cho đến lời lãi cho kỹ. Doanh nghiệp lại phải tự bươn chải để đi lên từ đất phèn hoang dại, đi lên từ nghèo khó, chỉ có lòng nhiệt tình mà thiếu cái căn bản nhất là đồng vốn. Có cách nào khác hơn là phải đi vay của ngân hàng Nhà nước.

Đã nợ thì có thời điểm khả năng chi trả rơi vào thế bí. Nhưng bí thì phải tìm ra cách tháo gỡ, không lẽ chịu bó tay. Tôi không tán thành một vài bài báo đã tung tin là nông trường Sông Hậu đang “bên bờ vực phá sản”. Chúng ta đã có Luật Phá sản, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Tài chính và nhiều bộ luật khác, nhiều Nghị định, Thông tư, Chỉ thị có liên quan để thành lập, xây dựng, quản lý, điều hành và kiểm tra doanh nghiệp. Nợ chưa trả hoặc trả chậm thì chưa gọi là phá sản được.

Tiền vay ngân hàng, chúng tôi đầu tư vào hàng chục khoản, hạng mục và cơ sở hạ tầng như: Điện, đường, trường, trạm. Rồi còn cho bà con nông dân vay, khách hàng ứng trước, rồi cả việc đền bù cái gọi là “đất gốc” để tránh thắc mắc, khiếu kiện, kéo dài phức tạp… tức là cũng mong ổn định để phát triển, yên lành mà làm ăn, còn mua thêm đất để mở rộng sản xuất, kinh doanh…

- Thưa bà, liệu những thông tin tiêu cực có làm ảnh hưởng đến uy tín của nông trường trên thị trường quốc tế?

- Tất nhiên, thời gian gần đây trước những thông tin tiêu cực và có thể nói là không chính xác về tình hình sản xuất kinh doanh của Nông trường Sông Hậu, có ít nhiều ảnh hưởng đến uy tín của thương hiệu Sohafarm. Thời gian qua, để chủ động theo kịp tình hình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để chuẩn bị cơ sở vật chất và công nghệ. Đến nay đã xây dựng hoàn chỉnh, được các tổ chức quốc tế công nhận các hệ thống quản lý chất lượng... Đặc biệt đã đăng ký độc quyền Nhãn hiệu hàng hoá SOHAFARM trong và ngoài nước. Chúng tôi tin rằng với những nỗ lực đó, cùng với tình hình thực tế của sản xuất kinh doanh tại nông trường, Sohafarm sẽ vượt qua những khó khăn do điều kiện cụ thể để phát triển. Trong khi vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung còn khá phổ biến tình trạng sản xuất nông nghiệp phân tán, nhỏ lẻ, tùy tiện, thiếu tập trung, cần có “nhạc trưởng” trong tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành, mô hình sản xuất nông nghiệp tập trung, công nghệ cao, khép kín quy trình theo hướng công nghiệp hóa như nông trường Sông Hậu cần được Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển bền vững và nhân rộng. Đất nông trường Sông Hậu là mồ hôi, nước mắt và cả xương máu, nay trở thành vùng đất lý tưởng để phát triển công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nơi đây cần được tiếp tục đầu tư, nâng cấp để phát triển các loại hình công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa do chính nông trường đã xây dựng tại chỗ, khép kín từ sản xuất đến thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sạch, chất lượng mang thương hiệu SOHAFARM. Nếu như ai đó có ý định “xẻ thịt” nông trường Sông Hậu để bán đất, cho thuê hoặc liên doanh làm mất đi mô hình nông trường Sông Hậu thì chúng tôi yêu cầu: “Xin đừng làm như thế”.

- Xin cảm ơn bà.

Theo CHU MÃ GIANG (Báo Quân đội nhân dân)