Nữ thẩm phán của công lý
(Giải ba cuộc thi bút ký văn học năm 2006 của Hội Văn nghệ Cần Thơ)
Vóc dáng chị nhỏ nhắn, nói chuyện thường cười mềm mỏng, cởi mở. Ngồi chủ tọa các phiên tòa thì chị không cười nhưng giọng nói vẫn nhẹ nhàng. Chị Dương Thị Thu Hà, Phó chánh tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ. Chị làm việc ở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ (trước kia là tỉnh Cần Thơ) đã 27 năm, 10 năm đầu với vai trò thư ký, thời gian sau là thẩm phán. Ông Lê Văn Tâm, Chánh án TAND TP Cần Thơ nói về chị: “Nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng, quan điểm rõ ràng nên thường được giao xét xử những vụ án khó”. Chị tâm sự với tôi nguyên nhân có tác phong “nghiên cứu kỹ hồ sơ” như sau:
- Trước đây, thư ký tòa án phải nghiên cứu hồ sơ, làm tiểu hồ sơ (ghi chép tóm tắt) để trình với hội đồng xét xử. Tôi vào nghề được rèn luyện như thế nên thành quen. Hồ sơ dù nhiều thế nào cũng phải đọc kỹ, các biên bản điều tra, các bản khai viết tay của bị cáo và cả thân nhân của họ đều không dám bỏ sót chữ nào.
Chị Dương Thị Thu Hà đang báo cáo công việc với Chánh án Lê Văn Tâm. Ảnh SN
|
Tôi nhìn bàn làm việc của chị, đặt một đầu trong căn phòng rộng thênh thanh có nhiều bàn làm việc của các thẩm phán, thư ký, người vô ra không ngớt. Gác gỗ nên mỗi bước chân người đi vang tiếng cọt kẹt và nổi nhịp… rung rinh. Không hề yên tĩnh. Chị nhìn theo, cười giải thích: “Tôi thường phải đến cơ quan nghiên cứu hồ sơ vào ngày nghỉ và ban đêm”. Tôi cố hình dung những ngày nghỉ và ban đêm, tầng gác này thênh thang lắm, vắng vẻ lắm. Đấy hành lang hun hút hai ba chục mét có thừa. Chị ngồi một mình, vóc dáng nhỏ nhắn lại càng nhỏ nhắn giữa không gian rộng lớn và lặng lẽ. Càng nhỏ nhắn khi phố xá ngòai kia chỉ cách khoảng sân thôi, nơi trung tâm Tây Đô, người xe cuồn cuộn, hàng quán đông đúc và các siêu thị nhộn nhịp, rực rỡ. Riêng chị ngồi đây, một mình trong lặng lẽ lần dở từng trang hồ sơ chất chồng có khi vượt quá đầu. Dưới ánh đèn, chị đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm từng dòng chữ, tìm sự thật trên những trang giấy vô tri vô giác, tìm sự thật bằng cách liên hệ các trang giấy rời rạc với nhau, tựa như nhà khoa học nghiên cứu lịch sử trên các cổ vật nhưng khác với những nhà khoa học ấy muốn dựng lại sự sống đã chết, chị thì cứu sự sống thoát khỏi cái chết. Minh oan được cho một con người, giải thoát một con người khỏi những nghi vấn tội trạng nặng nề là cứu sống một cuộc đời, có khi nhiều cuộc đời bởi còn người thân của họ.
Chẳng hạn “vụ án ông già hiếp dâm trẻ em”. Ông Mai Than sinh năm 1929 bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố tội hiếp dâm Đào Hải N sinh năm 1985, cả hai ngụ ở thị trấn Ô Môn (quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ). N là cháu vợ ông Mai Than, “vụ án” xảy ra năm 2000, lúc N mới 15 tuổi. Oái oăm ở chỗ N bị câm và thần kinh không bình thường nên không thể khai rõ ràng người đã hại mình. Bắt ông Mai Than vào trại tạm giam thì N sinh con và giám định ADN khẳng định ông Mai Than không phải cha của đứa bé. Ngày 29 tháng 7 năm 2005, chị Hà làm Chủ tọa phiên tòa xét xử sơ thẩm đã tuyên ông Mai Than vô tội. Sau đó Tòa án nhân dân tối cao y án sơ thẩm. Tôi hỏi chị:
- Không phải cha đứa bé nhưng ông Mai Than vẫn có thể có hành vi hiếp dâm cháu N?
- Đúng thế- Chị Hà trả lời - Nên phải nghiên cứu kỹ tất cả các chứng cứ có trong hồ sơ và các tình tiết xuất hiện tại tòa. N bị câm nhưng không bị điếc và thần kinh không bình thường chứ không phải hoàn toàn mất bình thường. Như thế những cử chỉ của N phải có ý nghĩa. Trong mấy năm khởi tố vụ án, khi được hỏi ai là cha của đứa bé, N không chỉ vào ông Mai Than mà luôn chỉ vào một người đàn ông láng giềng. Ông Mai Than lúc đầu nhận tội nhưng sau đã phủ nhận và có chứng cứ thể hiện ông bị tác động, cứ tưởng nhận tội thì sẽ được tha cho về. Không đủ chứng cứ buộc tội ông Mai Than thì phải tuyên ông vô tội, đó là sự công minh của pháp luật.
Người đàn ông láng giềng bị N chỉ tay thì giám định ADN cũng không phải là cha của đứa bé. Như thế là trong thời gian dài cố chứng minh ông Mai Than phạm tội, cơ quan điều tra đã để mất dấu vết của tội phạm thực sự. “Đấy là điều mà cơ quan điều tra và giám sát điều tra phải rút kinh nghiệm”- Chị Hà nói.
Tình hình tương tự ở “vụ án ông Nguyễn Đình Chiến”. Từ tháng 10 năm 1996 khi bắt tạm giam ông Chiến, gần 10 năm tiếp theo với 5 bản kết luận điều tra và nhiều lần điều tra bổ sung, 4 bản cáo trạng và 2 bản kháng nghị, khi định tội này khi định tội khác tất cả đều nhằm “kết tội cho được” ông Chiến. Nhưng chứng cứ buộc tội thì ngày càng yếu. Ngày 3 tháng 3 năm 2006, làm Chủ tọa phiên tòa xét xử sơ thẩm, chị Hà đã tuyên ông Nguyễn Đình Chiến vô tội. Phán quyết này được dư luận hồ hởi đón nhận còn hơn vụ giải oan cho ông già 76 tuổi thoát khỏi tội hình nhục nhã. Chị Hà tâm sự: “Xử những vụ án phức tạp cũng chịu nhiều áp lực lắm”.
Mỗi vụ án như thế, ít nhất đã qua hai, ba lần xử, có vụ đến bốn, năm lần. Xử sơ thẩm, phúc thẩm, qua giám đốc thẩm lại quay về xử sơ thẩm. Mỗi lần xử là một lần tranh luận giữa các cơ quan tố tụng, đôi lúc tranh luận trong một cơ quan tố tụng như mỗi lần xử có một bản án khác nhau. Đa phần tranh luận về quan điểm và đó lại là sự tranh luận gay gắt, phức tạp nhất. “Vụ án ông Nguyễn Đình Chiến”, nhiều lần tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, có lần chính Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đề nghị hoãn phiên tòa để rút hồ sơ về điều tra bổ sung, cuối cùng vẫn chứng cứ cũ, lập luận cũ và truy tố đề nghị xử tội danh cũ. Chỉ bằng lập luận khoa học rút ra từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng các chứng cứ mới bảo vệ được quan điểm đúng đắn. Tác phong nghiên cứu kỹ hồ sơ của chị Dương Thị Thu Hà bộc lộ sức mạnh ở đây.
Tôi hỏi:
- Những vụ án phức tạp, trước khi xét xử, chị có phải báo cáo với lãnh đạo để tìm chỗ dựa không?
Chị Hà cười:
- Có báo cáo nhưng chỉ báo cáo chứng cứ mà không báo cáo quan điểm xét xử. Báo cáo chứng cứ và nêu các hướng chung vì còn phụ thuộc vào thẩm vấn tại tòa, có thể xuất hiện chứng cứ mới.
- Còn trong hội đồng xét xử, có trao đổi với nhau trước khi xét xử không?
- Quá trình nghiên cứu hồ sơ có trao đổi về việc xem xét các chứng cứ nhưng không trao đổi quan điểm vì đề phòng bị lộ ra ngoài trước khi tuyên án- Chị lại cười -Chỉ trước giờ khai mạc phiên tòa, hội đồng xét xử mới hội ý trao đổi quan điểm xử lý.
Đôi lúc phán quyết của chị Hà không những phủ nhận cáo trạng truy tố của viện kiểm sát mà còn ngược với phán quyết của đồng nghiệp trong lần xử trước. Trở lại “vụ án ông Nguyễn Đình Chiến”, năm 1998 trong lần xử sơ thẩm đầu tiên, Chánh tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, cấp trên trực tiếp của chị Hà đã tuyên ông Chiến 18 năm tù. Tôi hỏi chị Hà:
- Sau khi chị tuyên ông Chiến vô tội thì có gặp khó khăn gì không?
- Không đâu. Xét xử là trách nhiệm của cá nhân, phải độc lập phán quyết để bảo vệ luật pháp, đâu có được vào hùa với nhau để xử oan người vô tội. Vả lại vì vụ án kéo dài nên càng về sau oan sai mới càng rõ ra. Hình sự khi càng chứng minh mà không rõ được hành vi phạm tội thì rõ điều ngược lại là vô tội.
Chị Hà tiếp thêm nước trà vào ly của tôi, hạ giọng tâm tình:
- Thực ra đồng nghiệp hiểu nhau về trách nhiệm cá nhân trong xét xử nên rất thoải mái. Khó khăn là từ bên ngoài, có trường hợp rất lạ như một số người trong doanh nghiệp do ông Nguyễn Đình Chiến làm chủ, khi tôi tuyên ông Chiến vô tội họ làm đơn chửi bới tôi đủ điều.
Đó là nhóm ông Nguyễn Sính và Đỗ Luyện, cổ đông trong doanh nghiệp cổ phần do ông Nguyễn Đình Chiến làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc ở Hải Phòng. Nhóm người này chỉ có vốn cổ phần chiếm khoảng bốn phần trăm vốn điều lệ của doanh nghiệp nhưng khi ông Chiến bị bắt tạm giam, họ giữ con dấu, giữ trụ sở rồi họp nhau lại “khai trừ” ông Chiến khỏi doanh nghiệp để chia nhau làm Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc. Việc làm của nhóm người này phần nào gây khó khăn cho công tác điều tra. Họ có những lý sự rất kỳ lạ: Một đằng cho rằng ông Chiến không là chủ doanh nghiệp nữa bởi doanh nghiệp đã thua lỗ nặng nề, đang mắc nợ lớn; một đằng khăng khăng đòi được làm đại diện cho doanh nghiệp trước tòa vì … doanh nghiệp đang làm ăn có lời. Mục đích của họ là không muốn để doanh nghiệp trả món nợ mà doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh đang mắc phải, họ muốn đẩy món nợ cho một mình ông Chiến phải chịu. Quả là đòi hỏi vô lý. Chị Dương Thị Thu Hà ngồi ghế Chủ tọa giữ sự bình tĩnh đến ngạc nhiên, chị cứ nhẹ nhàng hỏi chứng cứ. Làm ăn thua lỗ thì chứng cứ nào, tại sao cơ quan thuế Hải Phòng chứng nhận doanh nghiệp làm ăn tốt, nộp thuế cao? Họ muốn làm đại diện cho doanh nghiệp thì dựa vào cơ sở nào khi mà cuộc họp do họ tổ chức sau khi ông Chiến bị bắt tạm giam để bầu cho nhau các chức danh đại diện thì đã bị Tòa án nhân dân tối cao đã bác bỏ? Họ đưa ra giấy mời họp của một cơ quan nào đó để khẳng định họ là đại diện của doanh nghiệp. Đến đây, vài người dự phiên tòa không nén nổi đã phải phì cười. Sắc mặt của chị vẫn bình thản, giọng nói của chị không hề thay đổi, chị giải thích đó không phải chứng cứ pháp lý để khẳng định chức danh lãnh đạo doanh nghiệp. Không khí phiên tòa thật sự dân chủ song vì thế diễn ra chậm chạp, cảm thấy sốt ruột vô cùng. Sau này có dịp, tôi hỏi chị Hà là lúc ấy chị suy nghĩ gì về nhóm ông Nguyễn Sính, Đỗ Luyện? Chị trả lời:
- Tôi thấy nếu một doanh nghiệp đang nợ nần lớn thì khó có người giành quyền quản lý. Tuy nhiên, doanh nghiệp kinh doanh mà phát sinh nợ thì doanh nghiệp có trách nhiệm trả chứ không thể buộc một mình chủ doanh nghiệp.
Một câu nói đánh giá đúng bản chất việc làm của một số người trong suốt thời gian dài từng gây không ít tranh cãi, ngộ nhận và làm phức tạp vụ án. Bởi đã có bản kết luận điều tra và cáo trạng căn cứ cả vào lời của nhóm người này để cho rằng doanh nghiệp của ông Chiến không còn tài sản gì đáng kể nhằm kết tội ông Chiến. Họ muốn đẩy ông Chiến vào tù để có thể chiếm đoạt tài sản của ông. Sai lầm của vụ án chính do tư duy hình sự hóa giao dịch dân sự. Sai lầm cơ bản này khiến các mối quan hệ liên quan trở nên rối rắm và mục đích muốn thúc đẩy việc trả nợ đã không thực hiện được, trái lại trở thành ảo tưởng, vì bắt ông Chiến vô tù, doanh nghiệp của ông bị chiếm đọat nên không thể nào giải quyết được nợ nần. Chân lý luôn bị che lấp trong cuộc sống phức tạp bộn bề với nhiều dối trá và cám dỗ. Tìm được chân lý quả không dễ dàng và đường đến chân lý lắm lúc thật ngoằn ngòeo. Chị Hà nói thêm:
- Thật ra tôi cũng không xem xét nhiều đến hành vi của nhóm người ấy mà chỉ tập trung xem xét bản chất của vụ án. Các doanh nghiệp giao dịch làm ăn với nhau, minh bạch và hợp pháp, nếu phát sinh nợ nần thì giải quyết bằng Luật dân sự, không thể giải quyết bằng Luật hình sự.
Chợt chị ngồi lắng lại, suy tư. Chị đang nhớ lại những khó khăn, những gian nan, trách nhiệm và niềm hạnh phúc khi đưa ra những phán quyết độc lập đúng đắn chăng? Tôi cảm nhận gánh nặng trách nhiệm xã hội đè trĩu lên đôi vai gầy mỏng mảnh kia. Đất nước ngày càng dân chủ, cởi mở, phát triển có phần đóng góp quan trọng của các thẩm phán dũng cảm bảo vệ sự thật. Chị nhìn xấp hồ sơ trên tay và ngửng lên nhìn thẳng vào tôi. Chị nói:
- Khi nghiên cứu kỹ hồ sơ, thâm tâm tôi thường xuất hiện một niềm tin, một linh cảm nghề nghiệp mách bảo sự thật đang nằm ở đâu.
Tôi hiểu ra sức mạnh ẩn chứa trong dáng vẻ nhỏ nhắn, hiền lành của chị. Bảo vệ công lý đã là nghiệp của chị, say mê tìm sự thật, chứng minh và khẳng định sự thật bằng pháp luật đã là lẽ sống của chị, trở thành niềm tin, sức mạnh trong chị. Quen biết chị từ ngày chị còn làm thư ký tòa án nhưng gần đây khi chị tuyên những bản án tạo niềm phấn khởi cho xã hội đổi mới thì tôi mới thật hiểu về chị. Chánh án Lê Văn Tâm cho tôi biết: Chị còn phụ trách công đoàn của cơ quan, sống hòa đồng với mọi người, nữ nhưng mạnh dạn nên tổ chức được phong trào công nhân viên chức sôi nổi. Đó cũng là nguồn cội sức mạnh của chị. Sau khi chị tuyên ông Nguyễn Đình Chiến vô tội được mấy hôm thì đến ngày Quốc tế Phụ nữ Mồng 8 tháng 3, tôi mua mấy bông hồng bạch đến tặng chị từ sáng sớm tại cơ quan. Lần đầu tiên tôi làm việc này với phụ nữ ngoài cơ quan của tôi và chị có lẽ cũng lần đầu tiên có nhà báo đến tặng hoa. Chị cười rạng rỡ, trẻ ra. Thế rồi ngày Tòa án nhân dân tối cao tuyên bản án sơ thẩm có hiệu lực, tôi và vài đồng nghiệp tìm chị để chúc mừng thì không thấy chị ngồi ở phòng làm việc mà gặp chị lặng lẽ một góc căng tin dưới sân.
Tôi hỏi chị:
- Với những phán quyết bảo vệ công lý mạnh mẽ, khi hay biết, “ông xã” có lo cho chị không?
- Cũng có. Nhất là lo cho hai đứa con. Đã có lần tôi tuyên án xong thì nhận được lời đe dọa. Nhờ ra, con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Đứa con trai đầu đã đi bộ đội rồi.
Chị Dương Thị Thu Hà sinh năm 1960 trong một gia đình lao động nghèo ở nội ô TP Cần Thơ. Ba ruột tham gia cách mạng từ năm 1954. Sáu chị em chị đều vất vả, lam lũ từ nhỏ. Nay có gia đình riêng, sống quây quần bên nhau, nghèo nhưng đầm ấm, hạnh phúc.
Tôi gặp chồng của chị Hà, nguyên là cán bộ công an nhưng qua nhiều lần thuyên chuyển, nay làm bảo vệ ở Nhà khách Thành ủy Cần Thơ. Quê anh dưới Hậu Giang, từ ngày lấy vợ thì sống ở quê vợ. Anh hồn hậu kể: “May nhờ ba má vợ có mảnh đất rộng nên chia cho con cái người một miếng. Vợ chồng tôi được một trăm mét vuông. Lại khi mở rộng đường, tiền bồi hoàn giúp chúng tôi sửa được căn nhà sáng sủa hơn. Nếu chỉ đồng lương hai vợ chồng thì có lẽ không bao giờ chúng tôi có được căn nhà riêng để ở”.
Tôi ngắm nhìn căn nhà của gia đình chị. Căn nhà cấp bốn nhỏ bé lẫn vào nhiều căn nhà của bà con dân phố và rất thấp dưới những căn nhà cao tầng. Bấc giác tôi hỏi: Có nhiều người biết nhà của chị không? Chẳng thể nào đoán được nhưng tôi chắc chắn một điều, nhiều suy nghĩ, nghiền ngẫm vì công lý trong căn nhà ấy đã đem hạnh phúc vô bờ bến đến cho nhiều căn nhà khác. Biết đâu, có cả những tòa nhà cao tầng, lộng lẫy trên phố kia!
Sáu Nghệ
Cần Thơ tháng 10/2006



