Đề nghị xem xét vụ án buôn lậu gỗ - thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Quảng Trị - Đà Nẵng
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------o0o--------
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ CẦN THƠ
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ
58C Hùng Vương – Phường Thới Bình.
Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ.
ĐT: (0710) 3822490 – DĐ: 0913.870099
Website: www. vanly.com.vn Email: vanlylaw@gmail.com
---------------------------------------------------------------------
Cần Thơ, ngày 18 tháng 03 năm 2016.
ĐỀ NGHỊ XEM XÉT VỤ ÁN BUÔN LẬU GỖ - THIẾU TRÁCH NHIỆM
GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG XẢY RA TẠI QUẢNG TRỊ - ĐÀ NẴNG
Kính gửi: - BAN NỘI CHÍNH THÀNH ỦY TP.ĐÀ NẴNG
- CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.
- VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.
- CHÁNH TÒA HÌNH SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.
- PHÒNG KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TP.ĐÀ NẴNG.
Tôi: Nguyễn Trường Thành - Luật sư Văn phòng luật sư Vạn Lý, Đoàn luật sư TP.Cần Thơ là người bào chữa cho các bị cáo Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành là công chức hải quan Chi cục hải quan cảng Cửa Việt thuộc Cục hải quan tỉnh Quảng Trị bị VKSND tối cao truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Trong vụ án buôn lậu gỗ trắc xảy ra tại Quảng Trị và TP.Đà Nẵng, hiện TAND TP.Đà Nẵng thụ lý xét xử sơ thẩm.
- Căn cứ Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Sau khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, trao đổi với anh Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành, Luật sư có bản kiến nghị này gửi Ban nội chính Thành Ủy, TAND TP.Đà Nẵng, VKSND TP.Đà Nẵng xem xét lại toàn bộ vụ án để có quyết định xử lý công bằng tránh oan sai.
I/ VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN.
Bản cáo trạng số 02/VKSTC-V3 ngày 25/01/2016 thay thế bản cáo trạng số 14/KSTC-V1 ngày 07/05/2012 của VKSND tối cao đã kết luận.
1/ Bị can Trương Huy Liệu đã chỉ đạo nhân viên Công ty Ngọc Hưng làm giả hồ sơ tài liệu sau đó sử dụng bộ hồ sơ này để nhập khẩu, xuất khẩu 614.672m2 gỗ không rõ nguồn gốc xuất xứ theo quy định pháp luật trị giá 63.619.706.500đ hành vi nhập khẩu, xuất khẩu gỗ bằng hồ sơ giấy tờ được làm giả mạo nêu trên của bị can Trương Huy Liệu phạm vào tội “Buôn lậu” quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 153 Bộ luật hình sự.
2/ Bị can Trần Thị Dung đã có hành vi góp sức cho Trương Huy Liệu ký các hồ sơ giấy tờ giả mạo để làm thủ tục nhập khẩu gỗ không rõ nguồn gốc xuất xứ, sau đó làm giả hồ sơ xuất khẩu lậu vào Hồng Kông Trung Quốc hành vi của bị can Dung phạm tội “Buôn lậu” quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 153 Bộ luật hình sự với vai trò đồng phạm với bị can Trương Huy Liệu.
3/ Bị can Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành là công chức hải quan Chi cục hải quan Cảng Cửa Việt được giao nhiệm vụ kiểm hóa lô hàng theo tờ khai hải quan số 849/XK/KD/C32D ngày 19/12/2011 của Công ty Ngọc Hưng. Nhưng bị can Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành đã không làm đầy đủ trách nhiệm được giao do đó đã không phát hiện được 27 kiện hàng gồm 867 sản phẩm gỗ trắc 1.49m3, 23,828m3, giáng hương, 224,944m3 gỗ trắc xẻ trị giá 30.060.814.614đ mà Doanh nghiệp đã không khai báo khi làm thủ tục hải quan dẫn đến không phát hiện được hành vi buôn lậu của Công ty Ngọc Hưng hành vi của Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự (Bút lục số 1).
4/ Ngoài ra cáo trạng còn kết luận Đỗ Danh Thắng Chi cục trưởng Chi cục hải quan Đà Nẵng phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
Ý KIẾN CỦA LUẬT SƯ.
Tại bản kiến nghị ngày 01/10/2014 (Đính kèm) (Bút lục số 2) Luật sư đã đề nghị TAND TP.Đà Nẵng, VKSND TP.Đà Nẵng xem xét, theo đó VKSND tối cao truy tố Trần Huy Liệu, Trần Thị Dung về tội buôn lậu, Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành, Đỗ Danh Thắng về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là không có căn cứ pháp lý vững chắc. Ngày 31/10/2014 sau khi mở phiên Tòa sơ thẩm thì TAND TP.Đà Nẵng xét thấy chưa đủ căn cứ buộc tội nên đã có quyết định số 11/2014/HSST-QĐ trả hồ sơ điều tra bổ sung (Bút lục số 3) quá trình điều tra bổ sung mặc dù không chứng minh được hành vi phạm tội của các bị can nhưng VKS tối cao vẫn ban hành cáo trạng đề nghị truy tố . Nên Luật sư vẫn giữ nguyên quan điểm trong bản kiến nghị nêu trên và bổ sung thêm để làm rõ bản chất vụ án.
II/ VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG.
Quá trình điều tra vụ án cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như sau:
Thứ 1: Sử dụng giám định viên không đúng quy định pháp luật, cụ thể những người tham gia giám định lô hàng nhập khẩu và xuất khẩu của Công ty Ngọc Hưng là cán bộ Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật và kiểm lâm vùng II đều không phải là giám định viên Tư pháp.
Thứ 2: Chưa điều tra làm rõ việc bán đấu giá vật chứng có đúng pháp luật hay không theo quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 11/2014/HSST-QĐ ngày 31/10/2014 của TAND TP.Đà Nẵng (Điểm 14) cụ thể những vấn đề sau đây chưa được điều tra.
1/ Căn cứ nào để Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự định giá khởi điểm lô hàng có giá 63.619.706.500đ giá này là giá thị trường tại thời điểm định giá hay giá nhà nước quy định?.
2/ Tại quyết định xử lý vật chứng số 21/C44/P4 ngày 31/07/2013 của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an chỉ xử lý vật chứng toàn bộ lô hàng xuất khẩu thuộc tờ khai hải quan số 849/XK/KD/C32D ngày 19/12/2011 của Công ty TNHH Ngọc Hưng theo công văn số 231/C46(P10) ngày 06/06/2012 cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an gửi Tổng Cục hải quan xác nhận “Lô hàng xuất khẩu theo tờ khai hải quan số 849/XK/KD/C32D ngày 19/12/2011 của Công ty Ngọc Hưng gồm: gỗ trắc cam bột xẻ 180,380m3, gỗ trắc cam bột tròn 39,964m3, gỗ trắc cam bột tròn (tận dụng gốc, cành, ngọn) 315,456m3 tổng cộng lô hàng 535,8m3” (Bút lục số 21). Tại sao Hội đồng thẩm định giá trong tố tụng hình sự lại định giá cả gỗ hương và gỗ trắc khác ngoài tờ khai hải quan 849/XK/KD/C32D và Trung tâm bán đấu giá Sở tư pháp Hà Nội lại bán đấu giá lô hàng không đúng với tờ khai hải quan xuất khẩu nói trên (Bút lục số 4 quyết định xử lý vật chứng).
3/ Ngày 01/08/2013 cơ quan cảnh sát điều tra đã có văn bản số 431/C44-P4 yêu cầu Trung tâm dịch vụ bán đấu giá ngưng bán đấu giá lô hàng vật chứng theo tờ khai hải quan xuất khẩu số 849/XK/KD/C32D với lý do có vấn đề phát sinh cần xử lý (Bút lục số 5), tiếp theo ngày 12/08/2013 cơ quan cảnh sát điều tra có văn bản số 468/C44-P4 tiếp tục yêu cầu Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tạm dừng tổ chức bán đấu giá (Bút lục số 5A) với lý do tương tự (Đó là vấn đề gì cơ quan điều tra chưa điều tra nguyên nhân việc ngưng bán đấu giá?). Thực tế ngày 12/08/2013 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá đã có công văn dừng không tổ chức bán đấu giá (Bút lục 5B) (Không phải tạm dừng), tại sao đến ngày 31/12/2013 khi cơ quan cảnh sát điều tra có công văn số 905/C44.P4 (Bút lục số 6) gửi Trung tâm bán đấu giá Sở tư pháp Hà Nội cho tiến hàng bán đấu giá lô hàng vật chứng lại không tiến hành định giá lại trong khi giá gỗ trên thị trường nội địa và quốc tế thay đổi từng ngày từng tháng?. Thực tế thời gian từ ngày định giá 23/05/2013 của Hội đồng định giá trong tố tụng đến ngày bán đấu giá ngày 10/01/2014 và ngày ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá ngày 13/01/2014 đã trên 06 tháng (Bút lục số 5C+5D+5E).
4/ Cần tiến hành điều tra xác định có hay không việc các khách hàng đăng ký bán đấu giá đã “đạp giò” trong khi đấu giá để mua giá thấp gây thiệt hại nghiêm trọng đến số tiền thu từ bán đấu giá vật chứng.
a/ Danh sách khách hàng đăng ký bán đấu giá của (Trung tâm bán đấu giá Sở tư pháp Hà Nội ) đều không ghi ngày, tháng, năm mà khách hàng đăng ký đấu giá (Bút lục số 7+8).
b/ Phiếu đấu giá của khách hàng Nguyễn Văn Đại và Võ Thị Minh Nguyệt có nét tương đồng (Cần thiết giám định có phải do một người viết ra hay không để bảo đảm khách quan nên trưng cầu cơ quan giám định của Bộ quốc phòng), (Bút lục số 9+10).
c/ 4 phiếu đấu giá có số tiền chênh nhau ở đơn vị 100.000.000đ, cụ thể là:
- Phiếu đấu giá Nguyễn Thị Thanh đặt giá 63.620.000.000đ.
- Phiếu đấu giá Nguyễn Thành Hưng đặt giá 63.720.000.000đ.
- Phiếu đấu giá Võ Thị Minh Nguyệt đặt giá 63.820.000.000đ.
- Phiếu đơn giá Nguyễn Văn Đại Công ty Phú Xuân-TNHH đặt giá 63.920.000.000đ và chỉ sau khi đấu giá 1 vòng các khách hàng Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Thành Hưng, Võ Thị Minh Nguyệt bỏ cuộc? (Bút lục số 11+12+13+14+14A)
Thứ 3: Chưa điều tra làm rõ “Hậu quả nghiêm trọng” mà công chức hải quan Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành gây ra là bao nhiêu, số liệu cơ quan cảnh sát điều tra và VKS tối cao kết luận 30.060.814.614đ là giá trị hàng hóa thừa so với tờ khai hải quan nhập khẩu, không phải là hậu quả gây ra. Mặt khác theo cáo trạng VKS thì Trần Huy Liệu và Trần Thị Dung làm giả hồ sơ XNK để buôn lậu. Do đó cần phải chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi “Làm giả hồ sơ XNK với hành vi kiểm hóa 5% của công chức hải quan Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành có quan hệ nhân quả hay không”. Mặt khác theo quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND TP.Đà Nẵng đã yêu cầu điều tra bổ sung số hàng hóa mà Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành đã kiểm hóa 5% có sai phạm gì không, có lẫn lộn giữa gỗ trắc và gỗ hương , giữa gỗ xẻ và gỗ tròn, gốc cành ngọn hay không đã không được cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an làm rõ. Trong khi đó theo văn bản số 8766/TCHQ-ĐTCBL ngày 24/09/2015 (Bút lục số 15) của Tổng Cục hải quan gửi cơ quan cảnh sát điều tra chỉ xác định số tiền thiệt hại về thuế chênh lệch so với tờ khai hải quan chỉ là 787.792.445đ. Nên công chức hải quan Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành có sai sót trong kiểm hóa 5% theo lệnh của Chi cục trưởng thì cũng chỉ phải chịu trách nhiệm 5% đối với số tiền chênh lệch về thuế tức 5% của số tiền 787.792.445đ, số tiền chưa tới 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) chưa đủ cơ sở pháp lý để khởi tố, truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
III/ Về nội dung quy kết Lê Xuân Thành, Đỗ Lý Nhi phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo cáo trạng VKSND tối cao là không có căn cứ pháp lý vững chắc, bởi các chứng cứ tài liệu sau đây.
Thứ 1: Phạm vi trách nhiệm của Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành chỉ có trong phạm vi lệnh kiểm hóa 5% lô hàng theo quyết định kiểm hóa của Chi cục trưởng chi cục hải quan Cảng Cửa Việt, Lê Xuân Thành, Đỗ Lý Nhi không có quyền kiểm hóa toàn bộ lô hàng vì không có lệnh.
Thứ 2: Cơ quan cảnh sát điều tra, VKS tối cao chưa chứng minh được những sai phạm của Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành khi kiểm hóa 5% có nhiều tài liệu chứng minh họ đã làm hết trách nhiệm đó là:
- Bản ảnh đánh dấu hàng hóa được kiểm hóa (Sẽ tiếp tục cung cấp tại Tòa án).
- Biên bản ngày 06/08/2012 khám nơi cất giấu tài liệu tang vật phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ngày 14/03/2012 tại Chi cục hải quan cửa khẩu Cảng Đà Nẵng trang 11 ghi nhận “Trong quá trình kiểm tra khám xét có phát hiện một số thanh gỗ có ký hiệu CV của công chức hải quan kiểm hóa”(Bút lục số 16) tài liệu không phù hợp với bản ảnh đã được cung cấp tại phiên Tòa sơ thẩm ngày 30/10/2015 và các bản ảnh tiếp tục được cung cấp.
- Số lượng gỗ mà Doanh nghiệp khai báo phù hợp hoàn toàn với tờ khai nhập khẩu và tờ khai xuất khẩu lô hàng là 535,8m3 gỗ trắc và làm thủ tục xuất khẩu nguyên lô và đặc biệt đây là mặt hàng nhà nước khuyến khích nhập khẩu và xuất khẩu, không cấm nhập cấm xuất còn được hoàn thuế giá trị gia tăng. Chủ hàng đã kê khai đóng thuế toàn bộ lô hàng tại cửa khẩu Lao Bảo theo đúng quy định pháp luật về thuế.
Thứ 3: Tại văn bản số 1248/HĐQT.NV ngày 03/10/2014 của Cục hải quan Quảng Trị ngày (Bút lục số 17) xác định rõ công chức hải quan Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành đã làm hết trách nhiệm theo lệnh kiểm hóa 5% của Chi cục trưởng chi cục hải quan Cảng Cửa Việt. Điều này được minh chứng tại biên bản làm việc ngày 06/08/2012 của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đối với Chi cục hải quan Cảng Cửa Việt, theo văn bản này Chi cục trưởng Chi cục hải quan Cảng Cửa Việt đã xác định rõ như sau:
“Công chức kiểm hóa được giao nhiệm vụ kiểm tra thực tế lô hàng này chỉ thực hiện kiểm tra ngẫu nhiên một số container có mặc hàng gỗ trắc xẻ trong số 22 container cho đến khi đủ tỷ lệ theo lệnh hình thức (5% trên toàn bộ lô hàng) chứ không kiểm tra toàn bộ 22 container” (Bút lục số 18).
Cầu lưu ý rằng theo biên bản làm việc ngày 07/08/2012 của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an với đồn biên phòng Cảng Cửa Việt (Bút lục số 19) đại diện đồn biên phòng đã xác nhận rõ:
“Đồn biên phòng Cảng Cửa Việt có thực hiện việc giám sát bảo vệ đối với lô hàng hóa chuyển cửa khẩu theo tờ khai hải quan xuất khẩu số 849/XK/KD/C32D ngày 19/12/2011 của Công ty TNHH MTV Ngọc Hưng do Chi cục hải quan Cảng Cửa Việt thực hiện làm thủ tục hải quan” Chi cục hải quan có bàn giao cho đồn biên phòng biên bản bàn giao số 849/BBBG-CV ngày 20/12/2011 giữa Chi cục hải quan với đại diện Doanh nghiệp xuất khẩu là Lê Thị Mỹ Ái về hồ sơ chuyển cửa khẩu và hàng hóa gồm 22 containner đã niêm phong bằng scal hải quan thể hiện hải quan làm thủ tục là Lê Xuân Thành.
Thứ 4: Hồ sơ điều tra có mâu thuẩn giữa văn bản của Cục hải quan tỉnh Quảng Trị với công văn số 8765/TCHQ-ĐTCBL ngày 24/09/2015 của Tổng Cục hải quan (Bút lục số 20) về xác định trách nhiệm của công chức hải quan đặc biệt có áp dụng quyết định số 48/2008/QĐ-BTC để miễn trừ trách nhiệm cho công chức hải quan hay không. Văn bản trả lời 8765/TCHC-ĐTCBL của Tổng Cục hải quan không bảo đảm tính khách quan và sai thẩm quyền, cụ thể là:
- Vụ án do cơ quan phòng chống buôn lậu Tổng Cục hải quan khởi tố dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông Nguyễn Văn Cẩn - Tổng Cục phó, nay ông Cẩn trả lời cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an là không bảo đảm tính khách quan vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
- Quyết định số 48/2008/QĐ-BTC do Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành, nên việc giải thích trả lời văn bản này thuộc thẩm quyền của Bộ tài chính không thuộc thẩm quyền của Tổng Cục hải quan.
Tóm lại: Với tài liệu điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra chưa có đủ căn cứ pháp lý để kết tội các bị can Liệu, Dung về tội buôn lậu, các công chức hải quan Thành, Nhi, Thắng về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng như cáo trạng số 02/VKSTC-V3. Mặt khác khi xem xét giải quyết vụ án đề nghị Ban nội chính Thành Ủy, TAND TP.Đà Nẵng, VKSND TP.Đà Nẵng có quan tâm đến công luận đã đề cập đến vụ án, trong đó cáo Báo Tiền Phong, Người Cao Tuổi, Quân Đội Nhân Dân, Kinh tế Nông Thôn và hàng chục tờ báo khác. Cũng như sự quan tâm của Quốc Hội, Chủ tịch nước do có liên quan đến đối ngoại đặc biệt xem xét đến văn bản số 231/C46(P10) ngày 06/06/2012 và văn bản số 1237/C46(P10) ngày 31/07/2015 của Cục trưởng Cục cảnh sát kinh tế Bộ Công an Thiếu tướng Nguyễn Đức Thịnh đã xác định vụ việc không có căn cứ để kết luận các bị can Liệu, Dung phạm tội buôn lậu và theo đó các công chức hải quan Thành, Nhi, Thắng không phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Điều này hoàn toàn phù hợp với văn bản số 1328/BCT-XNK ngày 08/02/2013 của Bộ công thương xác định mặt hàng gỗ trắc kể cả gỗ giáng hương không thuộc diện cấm nhập cấm xuất (Đính kèm các tài liệu bút lục số 21+22+23+24+25+26+27), do đó trên tinh thần thận trọng không để xảy ra oan sai. Luật sư trân trọng đề nghị TAND TP.Đà Nẵng trả lại hồ sơ cho VKSND tối cao điều tra bổ sung những vấn đề Luật sư đã đề cập.
IV/ Khi tiến hành xét xử sơ thẩm, Luật sư trân trọng đề nghị TAND TP.Đà Nẵng triệu tập cá nhân, tổ chức sau đây tham gia phiên Tòa để làm rõ bản chất vụ án.
1/ Đại diện Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự TP.Đà Nẵng để làm rõ căn cứ định giá.
2/ Đại diện Trung tâm dịch vụ bán đấu giá Sở tư pháp Hà Nội để làm rõ trình tự thủ tục bán đấu giá bởi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc bán đấu giá vật chứng.
3/ 4 khách hàng tham gia bán đấu giá.
- Nguyễn Văn Đại - Công ty Phú Xuân-TNHH.
Địa chỉ: Phù Xa, Văn Môn, Yên Phong, Bắc Ninh.
- Nguyễn Thị Thanh – Công ty TNHH dịch vụ và đầu tư xây dựng Trung Thành.
Địa chỉ: Thôn Văn La, xã Văn Võ, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
- Nguyễn Thành Hưng - Công ty TNHH Thành Hưng Bắc Ninh.
Địa chỉ: Thôn Phù Khê, xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh.
- Võ Thị Minh Nguyệt – Chi nhánh Công ty TNHH TMDV Minh Tiến tại Đà Nẵng.
Địa chỉ: Lô 55-56 Nguyễn Hữu Thọ, P.Khuê Trung, Q.Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng.
Để làm rõ có hay không có việc đạp giò trong đấu giá, lý do vì sao danh sách khách hàng đấu giá không ghi ngày tháng đăng ký mua đấu giá và nhiều vấn đề khác mà cơ quan cảnh sát điều tra chưa điều tra làm rõ.
4/ Đại diện của Cục cảnh sát điều tra án kinh tế và tội phạm chức vụ Bộ Công an để làm rõ vì sao điều tra ban đầu cơ quan này xác định hành vi của các bị cáo Liệu, Dung không phạm tội buôn lậu.
5/ Tổng Cục phó Tổng Cục hải quan Nguyễn Văn Cẩn để trả lời về công văn số 8765/TCHQ-ĐTCBL ngày 24/09/2015 và những vấn đề khác có liên quan đến các công chức hải quan bị truy tố.
6/ Đại diện đồn biên phòng Cảng Cửa Việt để làm rõ về giám sát hàng hóa xuất khẩu và phương tiện vận chuyển ra vào Cảng Cửa Việt đối với lô hàng của Công ty Ngọc Hưng.
7/ Tham tán thương mại đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam để làm rõ lý do yêu cầu trả lại hàng hóa cho Công ty nhập khẩu của pháp nhân tại Hồng Kông Trung Quốc.
8/ Đại diện đại sứ quán Lào tại Việt Nam để làm rõ lý do yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an trả lại hàng hóa bắt giữ cho CHDCND Lào?.
9/ Ông Lê Đình Nhường (Trước đây là Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an , nay là Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình để làm rõ căn cứ pháp lý về quyết định bán đấu giá vật chứng của vụ án).
10/ Đại diện kiểm lâm vùng II và Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật để làm rõ vì sao không là giám định viên tư pháp lại tiến hành giám định? Đồng thời làm rõ phương pháp giám định.
11/ Thượng tá Đặng Thái Sơn điều tra viên chính điều tra vụ án, bởi theo thông tin được biết cùng thời gian Công ty Ngọc Hưng nhập khẩu 2 lô hàng gỗ trắc có nguồn gốc từ Lào trong đó lô gỗ tiêu thụ nội địa được cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an kê biên nhưng sau đó đã giải tỏa kê biên, còn lô hàng xuất khẩu nguyên lô lại truy tố tội buôn lậu là lý do vì sao?.
Trên đây là toàn bộ nội dung và đề nghị của Luật sư, trân trọng kính mong TAND TP.Đà Nẵng, VKSND TP.Đà Nẵng quan tâm xem xét.
|
Nơi nhận: - Như trên. - Ông Thành, ông Nhi. - Lưu HSBC. |
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ Trưởng Văn Phòng (Đã ký) LS.Nguyễn Trường Thành |



