Đề nghị xem xét lại việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Văn Thanh Bình
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------o0o--------
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ CẦN THƠ
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ
58C Hùng Vương – Phường Thới Bình.
Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ.
ĐT: (0292) 3822490 – DĐ: 0913.870099
Website: www. vanly.com.vn Email: vanlylaw@gmail.com
--------------------------------------------------------------------------
Cần Thơ, ngày 09 tháng 11 năm 2017.
ĐỀ NGHỊ XEM XÉT LẠI VIỆC KHỞI TỐ VỤ ÁN, KHỞI TỐ BỊ CAN
ĐỐI VỚI ÔNG NGUYỄN VĂN THANH BÌNH
Kính gửi: - VIỆN TRƯỞNG VKSND TỐI CAO.
- VỤ TRƯỞNG VỤ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ÁN XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP VKSND TỐI CAO.
- THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN ĐIỀU TRA VKSND TỐI CAO.
Ngày 01/11/2017 ông Nguyễn Văn Thanh Bình - Nguyên Phó Chánh án TAND TP.Sóc Trăng có nhờ Luật sư bào chữa cho ông trong vụ án “Ra quyết định trái pháp luật” được quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999.
- Ngày 07/11/2017 cơ quan điều tra VKSND tối cao đã cấp giấy chứng nhận số 12/VKSTC-C1(P10) để Luật sư bào chữa cho bị can theo quy định (Bút lục số 1).
- Căn cứ Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Sau khi nghiên cứu tài liệu do bị can cung cấp.
- Sau khi trao đổi với bị can.
Luật sư đề nghị đến Viện trưởng VKSND tối cao, Vụ trưởng Vụ kiểm sát điều tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, Thủ trưởng cơ quan điều tra VKSND tối cao xem xét lại việc khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Văn Thanh Bình. Bởi các lý do sau đây:
I/ VỀ NỘI DUNG VỤ VIỆC.
Theo quyết định khởi tố vụ án số 12 ngày 10/10/2017 (Chưa tống đạt cho bị can) và quyết định khởi tố bị can số 17/VKSTC-C1(P10) ngày 16/10/2017 (Bút lục số 2) thì ông Nguyễn Văn Thanh Bình bị khởi tố về tội “Ra quyết định trái pháp luật” theo quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999 với hành vi cụ thể là ban hành quyết định số 01/2013/QĐ.BPKCTT ngày 22/02/2013 “Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” trong vụ kiện tranh chấp “Đòi hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở” giữa bà Trần Thị Lẫm với ông Đặng Văn Muôn cùng ông Lê Văn Thu, bà Nguyễn Thị Ngọc tài sản tranh chấp là nhà và đất tọa lạc tại 2/4 đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 8, TP.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Nội dung của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
“1/ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 115 của Bộ luật tố tụng dân sự: Cấm ông Đặng Văn Muôn; địa chỉ số 2/4 đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 8, TP.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng và ông Lê Văn Thu, bà Nguyễn Thị Ngọc, địa chỉ số 93/1 đường Trương Công Định, khóm 4, phường 2, TP.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng thực hiện hành vi chuyển nhượng, mua bán, cầm cố, thế chấp, tặng cho quyền sở hữu nhà có diện tích xây dựng 77,9m2, diện tích sử dụng 198,07m2; kết cấu: tường 10, khung sàn, mái BTCT, nền gạch hoa, số tầng 03 và quyền sử dụng đất ở thửa số 07, tờ bản đồ 02, diện tích 77,9m2 tọa lạc tại số 2/4 đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 8, TP.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 580108, hồ sơ gốc số 116 do UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Đặng Văn Muôn và bà Trần Thị Lẫm ngày 27/04/2000.
2/ Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự” (Bút lục số 3).
Sau khi có quyết định khẩn cấp tạm thời ông Lê Văn Thu và bà Nguyễn Thị Ngọc có đơn khiếu nại ngày 27/02/2013 (Bút lục số 4).
Ngày 04/03/2013 Chánh án TAND TP.Sóc Trăng có quyết định số 01/2013/QĐ.GQKN theo đó không chấp nhận khiếu nại của Lê Văn Thu và Nguyễn Thị Ngọc (Bút lục số 5).
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự ông Thu, bà Ngọc tiếp tục khiếu nại đến TAND tỉnh Sóc Trăng và ngày 29/08/2013 tòa án tỉnh Sóc Trăng có quyết định số 01/2013/QĐ-BPKCTT hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của TAND TP.Sóc Trăng (Bút lục số 6).
Ngày 10/04/2013 TAND TP.Sóc Trăng có quyết định số 06/2013/QĐST-DS chuyển hồ sơ vụ án dân sự cho TAND tỉnh Sóc Trăng giải quyết theo thẩm quyền vì lý do bị đơn Đặng Văn Muôn đã xuất cảnh không còn sinh sống tại Việt Nam (Bút lục số 7).
Ngày 02/07/2014 tòa án tỉnh Sóc Trăng ban hành quyết định số 06/2014/QĐST-DS đình chỉ vụ án do bà Lẫm rút đơn kiện (Bút lục số 7a).
Sau khi vụ án đình chỉ ông Lê Ngọc Phượng người mua nhà của bà Ngọc đã khởi kiện bà Nguyễn Thị Ngọc để tranh chấp “Hợp đồng đặt cọc”, TAND TP.Sóc Trăng xử sơ thẩm, tòa án tỉnh Sóc Trăng xử phúc thẩm sau đó giám đốc thẩm của tòa án cấp cao xét xử giám đốc thẩm. TAND TP.Sóc Trăng và tòa án tỉnh Sóc Trăng đã xét xử lại lần 2 tại bản án số 56/2017/DS-PT ngày 27/04/2017 đã quyết định:
“Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự Lê Ngọc Phượng và Nguyễn Thị Ngọc theo đó bà Nguyễn Thị Ngọc thống nhất hoàn trả cho nguyên đơn Lê Ngọc Phượng số tiền 2.000.000.000đ tiền cọc và bồi thường 1.900.000.000đ (Bút lục số 8 đến số 12).
Với nội dung nêu trên cơ quan điều tra VKS cho rằng thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình đã ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời trái pháp luật gây thiệt hại cho Nguyễn Thị Ngọc nên khởi tố vụ án và khởi tố bị can để điều tra.
II/ Ý KIẾN CỦA LUẬT SƯ.
Việc khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình về tội “Ra quyết định trái pháp luật” theo Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999 là chưa bảo đảm căn cứ pháp lý vững chắc, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất: Quyết định khẩn cấp tạm thời số 01/2013/QĐ-BPKCTT ngày 22/02/2013 của thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình ban hành đã căn cứ vào khoản 1 Điều 100, khoản 1 Điều 99 và Điều 115 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 để ban hành là đúng pháp luật về thẩm quyền của tòa án, quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự và biện pháp áp dụng mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
Thứ hai: Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội “Ra quyết định trái pháp luật” đã xác định rõ đối với tội danh này chỉ bị xử lý hình sự khi những người ban hành quyết định biết rõ quyết định mình ban hành là trái pháp luật cũng như quyết định đó gây ra thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân. Tài liệu, tố tụng của của vụ kiện để đi đến Thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình ban hành quyết định áp dụng khẩn cấp tạm thời đều không chứng minh được:
1/ Thẩm phán Bình biết rõ quyết định của mình là sai.
2/ Chưa chứng minh được thiệt hại từ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Luật sư chứng minh như sau:
1/ Đối với việc thẩm phán có biết rõ hay không biết rõ, có các bằng chứng sau đây để kết luận thẩm phán Bình không thể biết rõ quyết định của mình là sai.
Thứ nhất: Trước khi nộp đơn khởi kiện và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại TAND TP.Sóc Trăng, nguyên đơn Trần Thị Lẫm đã có đơn ngăn chặn tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng tài nguyên môi trường TP.Sóc Trăng và ngày 20/02/2013 cơ quan này có thông báo cho bà Trần Thị Lẫm biết bà có quyền căn cứ khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Như vậy đây là quyền hiến định của công dân khi nộp đơn kiện mà ngay chính cơ quan đăng ký đất đai cũng hiểu và hướng dẫn cho đương sự thực hiện (Bút lục số 13). Cùng ngày 20/02/2013 bà Trần Thị Lẫm đã có đơn xin xác nhận về việc bà Nguyễn Thị Ngọc, ông Lê Văn Thu đang lập thủ tục sang tên ngôi nhà và đất mà bà đang tranh chấp.
Ngày 21/02/2013 Phó Chủ tịch UBND phường 8, TP.Sóc Trăng đã xác nhận vào đơn này (Bút lục số 14), sau khi có xác nhận của chính quyền thì cùng ngày 21/02/2013 bà Trần Thị Lẫm có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo đúng hướng dẫn trong thông báo của cơ quan đăng ký đất đai (Bút lục số 15).
Ngày 22/02/2013 thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình mới ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời căn cứ vào đơn của bà Lẫm, xác nhận của chính quyền và hướng dẫn của cơ quan đăng ký đất đai. Do vậy thẩm phán Bình không thể biết rõ “Quyết định khẩn cấp tạm thời của mình là sai”.
Thứ hai: Theo quyết định khẩn cấp tạm thời số 01/2013/QĐ-BPKCTT thì nơi nhận đã được ghi rõ “VKSND TP.Sóc Trăng” theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự VKSND TP.Sóc Trăng có thẩm quyền kiến nghị quyết định khẩn cấp tạm thời của TAND TP.Sóc Trăng do thẩm phán Bình ký theo quy định tại Điều 124 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên VKSND TP.Sóc Trăng không có kiến nghị theo thẩm quyền, tức VKSND TP.Sóc Trăng thừa nhận quyết định khẩn cấp tạm thời là đúng.
Thứ ba: Sau khi có khiếu nại của bị đơn, Chánh án TAND TP.Sóc Trăng cũng đã có quyết định giải quyết khiếu nại và xác định quyết định của thẩm phán Bình là có căn cứ nên giữ nguyên (Bút lục số 5 đã dẫn).
Như vậy VKSND TP.Sóc Trăng cơ quan có thẩm quyền kiểm sát hoạt động tố tụng đối với tòa án khi ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời, Chánh án TAND TP.Sóc Trăng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khẩn cấp tạm thời của thẩm phán phụ trách vụ việc đều không biết quyết định khẩn cấp tạm thời là sai thì thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình cũng không thể biết rõ quyết định của mình là sai.
2/ Về thiệt hại của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Cơ quan điều tra VKS tối cao cho rằng quyết định khẩn cấp tạm thời do thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình ban hành đã gây thiệt hại cho công dân là bà Nguyễn Thị Ngọc với số tiền 1.900.000.000đ (Một tỷ chín trăm triệu đồng) theo bản án công nhận sự thỏa thuận của đương sự số 56/2017/DS-PT ngày 27/04/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng là không có căn cứ pháp lý. Bởi lẽ:
Thứ nhất: Việc ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời của thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình không phải là trường hợp tự mình ban hành quyết định mà là theo yêu cầu của đương sự, nên theo quy định tại khoản 1, Điều 101 Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định “Người yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ 3 thì phải bồi thường”. Như vậy quy định của điều luật đã loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho thẩm phán khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của đương sự nếu gây ra thiệt hại.
Thứ hai: Thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời là đang thực hiện thẩm quyền của người thẩm phán được pháp luật cho phép, nếu gây ra thiệt hại cho đương sự thì theo quy định của pháp luật thuộc trường hợp “Bồi thường thiệt hại theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước”. Tuy nhiên Điều 28 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đã loại trừ trách nhiệm bồi thường của thẩm phán khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của đương sự cụ thể Điều 28 quy định:
“Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính gây ra trong trường hợp sau:
1/ Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
2/ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan tổ chức có yêu cầu.
3/ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan tổ chức yêu cầu”.
Như vậy điều luật quy định đã miễn trừ trách nhiệm cho thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình, vấn đề này Chánh án TAND tỉnh Sóc Trăng đã có quyết định số 237/2014/QĐCA ngày 11/08/2014 giải quyết khiếu nại đòi bồi thường của bà Nguyễn Thị Ngọc tại quyết định đã nêu rõ “Việc TAND TP.Sóc Trăng ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời số 01/2013/QĐ-BPKCTT ngày 22/02/2013 không thuộc các khoản 1,2,3 Điều 28 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước do đó tòa án tỉnh Sóc Trăng trả đơn lại cho bà Ngọc”.
Với các căn cứ nêu trên kết luận được việc thiệt hại xảy ra nếu có không thuộc trách nhiệm của thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà thuộc trách nhiệm của người đề nghị áp dụng chiếu theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 1,2,3 Điều 28 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước nên không thể lấy thiệt hại do người khác gây ra để gắn vào trách nhiệm của thẩm phán khi mà luật đã miễn trừ trách nhiệm cho họ.
III/ KẾT LUẬN VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT.
1/ Kết luận:
Căn cứ Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội “Ra quyết định trái pháp luật” đối chiếu với việc ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời của thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình thì chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì không chứng minh được “Thẩm phán Bình biết rõ quyết định mình ban hành là sai” cũng như Luật tố tụng dân sự và Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đã loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có đối với thẩm phán khi ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu đương sự nên không thể khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với thẩm phán Nguyễn Văn Thanh Bình theo quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự năm 1999 được.
2/ Ý kiến đề xuất.
Luật sư trân trọng đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao, Vụ trưởng Vụ kiểm sát điều tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, Thủ trưởng cơ quan điều tra VKSND tối cao căn cứ Điều 169 và Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với ông Nguyễn Văn Thanh Bình vì “Hành vi không cấu thành tội phạm”.
Một thẩm phán tuổi đời còn trẻ đã được đào tạo căn bản, quá trình làm việc trong ngành tòa án nhiều năm chưa có vi phạm, kỷ luật gì, hoàn cảnh gia đình cũng khó khăn nhưng luôn luôn có trách nhiệm với nghề nghiệp. Nên Luật sư trân trọng đề nghị VKSND tối cao, cơ quan điều tra VKSND tối cao sớm quan tâm xem xét.
Trân trọng.
|
Nơi nhận: - Như trên. - Chánh án tòa án tối cao. - Chánh án TA TP. Sóc Trăng. - Lưu HS. |
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ Trưởng Văn Phòng (Đã ký) LS.Nguyễn Trường Thành |



