Ngày thứ 5 xử vụ án buôn lậu gỗ trắc “khủng”: Luật sư chỉ ra "mười sự thật và vi phạm tố tụng"
Buổi sáng ngày 8/8, phiên tòa xử vụ án “buôn lậu” hơn 500 m3 gỗ trắc tiếp tục tranh luận. Thư ký phiên tòa cho biết, đã có giấy mời lãnh đạo Bộ Công thương, giám định viên lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt.

Quang cảnh phiên tòa sáng 8/8
Luật sư Nguyễn Trường Thành, Trưởng văn phòng Luật sư Vạn Lý (Đoàn luật sư TP. Cần Thơ) bào chữa cho ông Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành, có bài tranh luận được phiên tòa chú ý. Bởi đã đánh giá một cách khá toàn diện và đầy đủ vụ án.
Cty Ngọc Hưng nhập khẩu lô gỗ ngày 17/12/2011, ở cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), hai ngày sau làm thủ tục xuất khẩu, đưa xuống cảng Đà Nẵng thì bị bắt giữ vì phát hiện vi phạm hành chính. Ngày 6/4/2012, Cục Điều tra Chống buôn lậu của Tổng cục Hải quan khởi tố vụ án “buôn lậu” và chuyển hồ sơ cùng tang vật cho Cơ quan CSĐT Bộ Công an.
Trong quá trình đó, ngày 2/3/2012, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải chỉ đạo Bộ Tài chính và Bộ NN&PTNT kiểm tra, báo cáo. Thực hiện chỉ đạo, cơ quan kiểm lâm và cả Bộ Công Thương xác định lô gỗ buôn bán bình thường.
Ngày 6/6/2012, Cơ quan CSĐT (C46) có công văn gửi Tổng cục Hải Quan xác định vụ việc không có dấu hiệu hình sự. Hiệp hội doanh nghiệp gỗ cũng có công văn phản đối việc hình sự hóa, ngăn cản kinh doanh. Luật sư Thành nói: “Lẽ ra khi có ý kiến của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, các văn bản của kiểm lâm, Bộ Công thương, đặc biệt là văn bản của C46 thì Cục Điều tra Chống buôn lậu hủy quyết định khởi tố vụ án, chắc chắn vụ việc không kéo dài đến hôm nay và hậu quả nghiêm trọng đến mức này”. Luật sư Thành nêu ra 5 sự thật và 5 vi phạm tố tụng đang gây nhức nhối dư luận của vụ án. Cụ thể:

Luật sư Nguyễn Trường Thành tranh luận
Năm sự thật
Thứ nhất: Không có việc Cty Ngọc Hưng làm giả hồ sơ nhập và xuất khẩu như cáo buộc của viện kiểm sát. Chứng cứ là kết quả giám định của Bộ Công an xác định chữ ký và con dấu của đối tác Lào có thật; tờ khai hải quan không thể làm giả; vận đơn là chứng từ vận tải đường biển do chủ tàu cấp mà Cty Ngọc Hưng không thể làm giả; hóa đơn thương mại, lý lịch gỗ là những chứng từ bên bán cung cấp. Mặt khác, luật pháp không nghiêm cấm các đối tác trong quan hệ kinh doanh thương mại giúp đỡ nhau để hoàn thành thủ tục mua bán và thủ tục hải quan theo quy định của mỗi nước.
Thứ hai: Gỗ trắc được nhập và xuất khẩu bình thường. Lô gỗ có nguồn gốc nhập khẩu từ Lào rất rõ ràng, theo xác nhận của Cục Hải quan Quảng Trị; Chi cục Hải quan cửa khẩu Lao Bảo, Cảng Cửa Việt, Cảng Đà Nẵng. Cùng thời điểm, Cty Ngọc Hưng nhập khẩu lô hàng gỗ trắc này, nhiều doanh nghiệp Viêt Nam nhập và xuất khẩu như Cty Ngọc Hưng đều thông quan cửa khẩu Lao Bảo và đều được coi là hợp pháp. Lô gỗ của Cty Ngọc Hưng đã hoàn thành nghĩa vụ thuế GTGT theo quy định. Luật sư Thành: “Trên thế giới cũng như tại Việt Nam chưa có trường hợp nào hàng hóa đã kê khai thuế ở cửa khẩu nhập mà bị coi là hàng lậu, chỉ duy nhất trường hợp của Cty Ngọc Hưng”.
C46 có văn bản trả lời Tổng cục Hải quan và Chánh văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an là: Cty Ngọc Hưng không buôn lậu. Cục Hải quan Quảng Trị, Đà Nẵng; Chi cục Hải quan Lao Bảo, Cảng Cửa Việt, Cảng Đà Nẵng xác định trước tòa không phải hàng lậu.
Thứ ba: Kết quả điều tra của Cơ quan CSĐT, cáo trạng và kết luận của công tố gián tiếp xác định rằng lô hàng là hợp pháp không phải là hàng lậu. Bằng chứng: Cơ quan điều tra, viện kiểm sát xác nhận việc thông quan lô hàng tại cửa khẩu Lao Bảo là đúng pháp luật. Khi đã công nhận việc thông quan tại cửa khẩu Lao Bảo là hợp pháp và được xuất nguyên lô tại cảng Cửa Việt, chuyển khẩu tại cảng Đà Nẵng thì không thể nói rằng đó là hàng lậu.
Thứ bốn: Những thiếu sót của Cty Ngọc Hưng nếu có trong quá trình khai báo hải quan nhập lô gỗ chỉ là vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Điều này được xác định bởi lời khai của đại diện Cục Hải quan Quảng Trị, Đà Nẵng; Chi cục Hải quan Lao Bảo, cảng Cửa Việt. Quan điểm C46 trong văn bản ngày 6/6/2012 gửi Tổng cục Hải quan và công văn ngày 31/7/2015 gửi Chánh văn phòng Cơ quan CSĐT đều khẳng định, vi phạm của Cty Ngọc Hưng chỉ là vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Quan điểm này phù hợp với văn bản ngày 3/10/2014 của Cục Hải quan Quảng Trị gửi TAND Đà Nẵng, xác định Cty Ngọc Hưng không buôn lậu như cáo trạng truy tố.
Thứ năm: Viện KSNDTC đã nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm của nhân viên hải quan kiểm hóa Lê Xuân Thành và Đỗ Lý Nhi. Đây là 2 công chức thuộc Chi cục Hải quan cửa khẩu Cảng Cửa Việt được phân công giao nhiệm vụ kiểm hóa lô hàng xuất khẩu, nguyên lô từ hàng nhập khẩu hợp pháp đã được thông quan tại Cửa khẩu Lao bảo trước đó 2 ngày. Cán bộ kiểm hóa chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ được giao là kiểm tra 5% tổng số hàng hóa kê khai. Theo lệnh, ông Thành và ông Nhi đã thực hiện đầy đủ và cáo trạng không xác định kiểm hóa có sai sót.
Cáo trạng cho rằng, 22 container không có mặt tại cảng Cửa Việt tại thời điểm kiểm hóa là không có căn cứ. Bởi vì, nếu 22 container không có tại cảng thì làm sao thực hiện niêm phong, được xác nhận giám sát của đồn biên phòng, và biên bản bàn giao giữa Hải quan cảng Cửa Việt và đồn Biên phòng.
Năm vi phạm
Thứ nhất: Trình tự thủ tục giám định lô gỗ trắc của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật là vi phạm về thẩm quyền giám định, người giám định, và phương pháp giám định. Những vi phạm này qua hai lần xét xử sơ thẩm, TAND Đà Nẵng đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, trong đó, yêu cầu giám định lại theo điều 159 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng không thể giám định được vì lô gỗ vật chứng không còn. Do vậy, về nguyên tắc khi không thể giám định lại được thì các kết quả giám định trước đó không thể làm căn cứ buộc tội các bị cáo.

Luật sư Nguyễn Trường Thành chỉ ra các các sự thật và sai phạm
Thứ hai: vi phạm nghiêm trọng về việc bán vật chứng theo quy định tại điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự khi không có quy định pháp luật gỗ trắc, giáng hương là hàng hóa vật dụng mau hỏng khó bảo quản, để phải bán gấp. Vật chứng trong quá trình điều tra vẫn còn đang tranh chấp giữa doanh nghiệp Trung Quốc, Chính phủ Lào và Cty Ngọc Hưng thì Cơ quan CSĐT (C44), Viện KSNDTC không có thẩm quyền bán vật chứng mà phải chờ bản án có hiệu lực pháp lý của Tòa án.
Mặt khác, có căn cứ pháp lý để khẳng định rằng việc sử dụng kết quả định giá của Hội đồng Định giá trong tố tụng hình sự TP Đà Nẵng để bán lô gỗ vật chứng là bất hợp pháp. Lý do: Chứng thư thẩm định giá ghi rõ chỉ được phép sử dụng cho quá trình điều tra ngoài ra không được sử dụng vào mục đính nào khác.
Thứ ba: Kết quả thẩm vấn công khai tại tòa chứng minh quá trình điều tra không đầy đủ, vi phạm điều 10 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể: Đã không điều tra các chứng cứ gỡ tội cho các bị cáo mặc dù tòa án đã 2 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Bằng chứng là tại phiên tòa sơ thẩm lần 3, xuất hiện các chứng cứ mới: Hải quan cửa khẩu Lao Bảo xác nhận, ngày 17/12/2011 có 19 doanh nghiệp nhập khẩu gỗ, trong đó có hơn 2.000 m3 gỗ trắc từ Lào, đều sử dụng hồ sơ các doanh nghiệp bán gỗ tại Lào, tương tự Cty Ngọc Hưng. Tại sao chỉ khởi tố duy nhất lô gỗ của Cty Ngọc Hưng?
Cùng ngày 17/12/2011, Cty Ngọc Hưng nhập 2 lô gỗ trắc từ Lào, hồ sơ thủ tục giống nhau. Vì gỗ nhiều, lô thứ hai phải làm thủ tục thông quan vào ngày hôm sau tại cửa khẩu Lao Bảo mà khi khởi tố, Cơ quan CSĐT (C44) kê biên, 2 năm sau có kết luận lô gỗ này không vi phạm đồng thời giải tỏa kê biên. Sau đó, Cty NGọc Hưng đã xuất lô gỗ trắc này sang Trung Quốc và được hoàn thuế GTGT theo quy định của pháp luật. Tại sao cùng hồ sơ khai báo tương tự, cùng qua một cửa khẩu, cùng của Cty Ngọc Hưng, cùng mục đích nhập để xuất sang nước thứ ba mà một lô bị Viện KSNDTC coi là hàng lậu, còn một lô không phải là hàng lậu?
Thứ bốn: kết quả điều tra, cáo trạng và kết luận của VKS tại tòa đều không chứng minh được: hậu quả của vụ án, nguyên tắc nào để xác định hậu quả của vụ án? Thực tế, số tiền cáo trạng lấy làm hậu quả của vụ án để quy kết trách nhiệm 3 công chức hải quan là Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành, Đỗ Danh Thắng đều không có căn cứ pháp lý vững chắc.
Bằng chứng là: Viện KSNDTC lấy giá trị của lô hàng nhập khẩu và xuất khẩu ở thời điểm bán đấu giá theo kết quả giám định của Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, tính phần chênh lệch so với khai báo để xác định là hậu quả của vụ án. Còn ông Đỗ Danh Thắng khai tại tòa, nếu tính hậu quả của vụ án đối với công chức hải quan thì không thể tính theo cách của cáo trạng, mà phải tính trên cơ sở tờ khai hải quan khi xuất khẩu. Trong lúc, ông Lê Xuân Thành, Đỗ Lý Nhi lại khẳng định trước tòa, với giả sử kết quả giám định lần 2 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật là đúng thì hậu quả của vụ án phải xác định là lấy kết quả giám định trừ đi tờ khai xuất và nhập của Cty Ngọc Hưng để từ đó tính ra hậu quả.
Chưa hết, ông Liệu lại khẳng định, vụ án này không có hậu quả vì hàng nhập khẩu hợp pháp, thuế GTGT tạm nộp khi nhập được hoàn khi xuất và xuất khẩu thì miễn thuế. Bên cạnh, C46 lại cho rằng, để có căn cứ xác định hậu quả vụ án cần phải có giám định chuyên môn về thuế để xác định lô hàng này có gây thất thu thuế cho nhà nước hay không và nếu thất thu là thất thu bao nhiêu để có cơ sở xác định hậu quả vụ án.
Như vậy trong 5 cách tính nêu trên, cách tính nào là đúng?
Thứ 5: Cái chết của ông Trần Đình Quang, một nhân chứng quan trọng nhất của vụ án này còn là một dấu hỏi chưa có câu trả lời. Có hay không việc bức cung, mớm cung của cán bộ điều tra trực tiếp điều tra vụ án làm cho anh Quang xấu hổ với người thân, bức xúc với việc làm của cán bộ điều tra nên tự vẫn? Hiện tại ai là người đã giữ 3 bản chính của di thư mà anh Quang để lại trước khi tự vẫn?

Sáng 8/8 vẫn có đông người dự phiên tòa
Với 5 sự thật và 5 vi phạm tố tụng trên, Luật sư Thành đề nghị “Hội đồng xét xử tuyên tất cả các bị cáo không phạm tội như cáo trạng của Viện KSNDTC truy tố, khôi phục quyền lợi hợp pháp cho họ theo quy định pháp luật”. Luật sư nói thêm, tuyên vô tội cho các bị cáo còn có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, có lợi cho quan hệ thương mại Việt- Lào cũng như quan hệ thương mại Việt - Trung, phù hợp với đường lối và chủ trương của Chính phủ hiện nay là cải cách hành chính thủ tục hải quan và thuế.
Theo: Sáu Nghệ - lsvn.vn



