Bài bào chữa vụ án buôn lậu gỗ trắc

Facebook Google+ Email

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-------o0o--------

 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ CẦN THƠ

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ

58C Hùng Vương – Phường Thới Bình.

Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ.

ĐT: (0292) 3822490 – DĐ: 0913.870099

Website: www. vanly.com.vn    Email: vanlylaw@gmail.com

-------------------------------------------------------------------------

Cần Thơ, ngày 10  tháng 07 năm 2019.

 

BÀI BÀO CHỮA

 

Kính gửi:          - HỘI ĐỒNG XÉT XỬ TAND  CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG.

                        - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG.

 

Tôi: Luật sư Nguyễn Trường Thành - Văn phòng luật sư Vạn Lý, Đoàn luật sư TP. Cần Thơ người bào chữa là người bào chữa cho các bị cáo:

1/ Đỗ Lý Nhi.

2/ Lê Xuân Thành.

Là các công chức hải quan Cảng Cửa Việt Cục hải quan tỉnh Quảng Trị bị TAND TP.Đà Nẵng xét xử về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” đồng thời bào chữa cho hai bị cáo:

1/ Trương Huy Liệu.

2/ Trần Thị Dung.

Là Giám đốc, Phó Giám đốc đến Công ty Ngọc Hưng có trụ sở tại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị bị TAND TP.Đà Nẵng xét xử sơ thẩm về tội “Buôn lậu”.

- Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án.

- Sau khi nghe kết quả thẩm vấn tại phiên Tòa.

- Sau khi nghe kết luận của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về vụ án.

Ý kiến của tôi như sau:

I/ Về nội dung án sơ thẩm của TAND TP.Đà Nẵng đã tuyên:

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2018/HSST ngày 23/08/2018 TAND TP.Đà Nẵng đã quyết định.

- Tuyên bố bị cáo Trương Huy Liệu, Trần Thị Dung phạm tội “Buôn lậu”.

- Các bị cáo Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành, Đỗ Danh Thắng phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

1/ Căn cứ khoản 2 Điều 188 điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Trương Huy Liệu 01 năm 16 ngày tù được trừ đi thời gian bị cáo được tạm giam trước đây (Từ ngày 19/11/2012 đến 04/12/2013) bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

2/ Căn cứ khoản 2 Điều 188 điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 54 Điều 58 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Trần Thị Dung 09 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

3/ Căn cứ khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 điểm s khoản 1, khoản 2  Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Đỗ Lý Nhi 09 tháng tù cho hưởng án treo, Lê Xuân Thành  09 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, Đỗ Danh Thắng 06 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

- Trả lại Công ty Ngọc Hưng 62.634.930.000đ.

- Tịch thu xung công quỹ nhà nước 1.191.400.000đ ngoài ra án sơ thẩm còn xử lý các vật chứng khác cũng như kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét các vấn đề có liên quan đến vụ án.

II/ Nội dung kháng cáo kháng nghị sau khi bản án sơ thẩm tuyên:

1/ Các bị cáo: Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành và Đỗ Danh Thắng kháng cáo một phần bản án sơ thẩm kêu oan về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” về việc quy buộc các bị cáo thiếu trách nhiệm để hai bị cáo Trương Huy Liệu, Trần Thị Dung buôn lậu 21,506m3 gỗ giáng hương trị giá 471.602.500đ là không có căn cứ pháp lý vững chắc.

2/ Các bị cáo Trương Huy Liệu, Trần Thị Dung kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về tội danh “Buôn lậu” án sơ thẩm buộc tội hai bị cáo buôn lậu 21,506m3 gỗ giáng hương trị giá 471.602.500đ là không có căn cứ, oan cho hai bị cáo.

3/ Công ty Ngọc Hưng kháng cáo phần xử lý vật chứng, theo đó đề nghị trả lại lô gỗ cho Công ty hoặc dành cho Công ty quyền khởi kiện.

4/ VKSND cấp cao tại Đà Nẵng có kháng nghị một phần bản án sơ thẩm của TAND TP.Đà Nẵng theo kháng nghị số 39/QĐ.VC2 ngày 14/9/2018 theo hướng đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng sửa án sơ thẩm theo nội dung:

- Áp dụng khoản 4 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội buôn lậu tăng hình phạt đối với bị cáo Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung.

- Xử lý vật chứng tịch thu xung công quỹ số tiền 62.634.930.000đ.

III/ Ý kiến của Luật sư.

1/ Về hình thức:

Kháng cáo của các bị cáo Trương Huy Liệu, Trần Thị Dung, Lê Xuân Thành, Đỗ Lý Nhi, Đỗ Danh Thắng, Công ty TNHH Ngọc Hưng. Cục điều tra chống buôn lậu và kháng nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nằm trong thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nên được coi là hợp lệ để cấp phúc thẩm xem xét giải quyết.

2/ Về nội dung:

a/ Ông Đỗ Danh Thắng kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo và TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận, nên phần bản án sơ thẩm tuyên đối với ông đã có hiệu lực pháp luật không xem xét tại phiên Tòa này.

b/ Công ty TNHH Ngọc Hưng kháng cáo phần xử lý vật chứng nhưng tại phiên tòa do có tình tiết mới phát sinh sau khi kháng cáo là “Cục điều tra VKS tối cao đã khởi tố vụ án ban hành quyết định trái pháp luật” xảy ra tại cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an C44 nên quyền lợi của Công ty vẫn sẽ được bảo đảm khi xử lý vụ án này nên Công ty rút kháng cáo. Luật sư đề nghị HĐXX chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Công ty giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm TAND TP.Đà Nẵng về xử lý vật chứng đối với số tiền 62.634.930.000đ.

c/ Cục điều tra chống buôn lậu có kháng cáo phần kiến nghị của bản án sơ thẩm, theo Luật sư là không đúng thẩm quyền. Vì bản án sơ thẩm kiến nghị Tổng Cục hải quan xử lý các cá nhân , không kiến nghị Cục điều tra chống buôn lậu. Nên chỉ có Tổng Cục hải quan mới có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của TAND TP.Đà Nẵng, nên đề nghị HĐXX bác kháng cáo của Cục điều tra chống buôn lậu.

d/ Về kháng cáo của hai bị cáo Đỗ Lý Nhi, Nguyễn Xuân Thành, Luật sư đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo. Theo đó sửa bản án sơ thẩm tuyên hai bị cáo không phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, bởi các lý do sau đây:

Thứ 1: Cơ quan điều tra, VKSND tối cao, TAND TP.Đà Nẵng không chứng minh được có gỗ hương trong 5% số lượng hàng kiểm hóa theo lệnh hình thức của Chi Cục trưởng Chi cục hải quan Cảng Cửa Việt.

Thứ 2: Công chức hải quan Đỗ Lý Nhi và Lê Xuân Thành đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục kiểm hóa theo quyết định 171/TCHQ.

Thứ 3: Theo xác nhận của Cục hải quan tỉnh Quảng Trị và Tổng Cục hải quan công chức hải quan chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi thi hành lệnh hình thức về tỷ lệ kiểm hóa ngoài tỷ lệ kiểm hóa chủ hàng chịu trách nhiệm.

Thứ 4: Không có căn cứ pháp lý vững chắc để xác định lô hàng theo tờ khai nhập khẩu số 1505/NK/KD/B033 ngày 17/12/2011 và tờ khai xuất khẩu số 849/XK/KD/C32D ngày 19/12/2011 có trộn lẫn 21,506m3 gỗ giáng hương (Luật sư sẽ phân tích pháp lý trong phần bào chữa cho bị cáo Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung).

Thứ 5: Các lời khai của lái xe, lời khai của kế toán Công ty Ngọc Hưng mà VKSND cấp cao và tòa án cấp sơ thẩm làm căn cứ buộc tội hai bị cáo. Do có nhiều mâu thuẩn với lời khai của hai bị cáo, biên bản xác nhận của Biên phòng Cảng Cửa Việt nhưng chưa được đối chất trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm nên không thể dùng làm chứng cứ buộc tội.

e/ Đề nghị HĐXX TAND cấp cao tại Đà Nẵng bác kháng nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về việc chuyển khung hình phạt tăng án đối với bị cáo Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung về tội buôn lậu và theo đó bác kháng nghị về việc tịch thu xung công quỹ số tiền bán vật chứng. Bởi các lý do sau đây:

Thứ 1: Tại thời điểm Doanh nghiệp mở tờ khai hải quan nhập khẩu số 1505/NK/KD/B033 ngày 17/12/2011 và tờ khai xuất khẩu số 849/XK/KD/C32D ngày 19/12/2011 cả hai mặt hàng mà VKSND cấp cao cho rằng các bị cáo buôn lậu gỗ trắc và gỗ giáng hương đều không là mặt hàng bị cấm nhập theo luật pháp Việt Nam và cũng không là mặt hàng cấm xuất theo luật pháp Việt Nam, cũng không là mặt hàng bắt buộc phải có giấy phép xuất nhập khẩu theo quy định chuyên ngành. Điều này đã được chứng minh bằng văn bản số 1328/BCT-XNK ngày 08/02/2013 của BCT trả lời Tổng Cục hải quan về việc xuất khẩu gỗ trắc có nguồn gốc nhập khẩu từ Lào, văn bản này được đại diện BCT tái xác nhận có hiệu lực đối với tất cả các thương nhân, Doanh nghiệp trên toàn quốc.

- Cục kiểm lâm Bộ NN&PTNT  có văn bản số 243/KL-TTPC ngày 17/05/2012 và công văn số 277/KL-TTPC ngày 30/05/2012 khẳng định hai mặt hàng gỗ trắc và gỗ giáng hương nhập khẩu, xuất khẩu tự do không phải xin giấy phép (Đây là hai văn bản trả lời C46 Cục cảnh sát điều tra án kinh tế Bộ Công an).

Thứ 2: Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Tổng Cục hải quan, đại diện Cục hải quan tỉnh Quảng Trị, đại diện Bộ Công Thương đều xác định “Trường hợp gỗ từ các nước xuất khẩu vào Việt Nam Doanh nghiệp của nước xuất khẩu phải tuân thủ pháp luật nước sở tại và thủ tục do Doanh nghiệp nước sở tại chịu trách nhiệm. Doanh nghiệp Việt Nam chịu trách nhiệm thực hiện các quy định xuất khẩu, nhập khẩu tạm nhập tái xuất của Việt Nam quy định này được thể hiện trong Nghị định số 12/2006/NĐCP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại được cụ thể hóa bằng văn bản số 1328/BCT-XNK ngày 08/02/2013 của Bộ Công Thương gửi đến Tổng Cục hải quan”. Do vậy việc quy kết các bị cáo lợi dụng làm hồ sơ giả để nhập khẩu lô hàng là không có căn cứ vì hồ sơ xuất khẩu thuộc trách nhiệm của bên xuất khẩu.

Thứ 3: Chính sách thuế.

Nhập khẩu và xuất khẩu đối với lô gỗ nhập nguyên lô xuất nguyên lô của Công ty Ngọc Hưng thì cơ quan thuế hải quan tại Lao Bảo. Công ty Ngọc Hưng, Cục hải quan tỉnh Quảng Trị, Giám định viên thuế đã xác định tại Tòa rằng:

a/ Đối với thuế nhập khẩu:

Doanh nghiệp kê khai thuế giá trị gia tăng đối với lô hàng gỗ nhập khẩu và tạm nộp số thuế này vào ngân sách nhà nước, khi lô hàng được xuất khẩu có chứng từ xuất khẩu hợp lệ, hợp pháp Doanh nghiệp được hoàn thuế.

Thuế nhập khẩu Doanh nghiệp tự kê khai làm thủ tục xuất khẩu, khi xuất khẩu hoàn thành Doanh nghiệp được miễn thuế xuất khẩu (Thời hạn 30 ngày). Như vậy thuế xuất khẩu bằng không. Tài liệu điều tra chứng minh Công ty Ngọc Hưng thực hiện thủ tục kê khai nộp thuế đúng quy định pháp luật, cụ thể:

- Thuế nhập khẩu (GTGT) Doanh nghiệp đã khai trong tờ khai hàng hóa nhập khẩu số 1505/NK/KD/B033 ngày 17/12/2011 tổng số thuế phải nộp là 3.246.503.317đ.

- Chứng từ ghi số thuế phải thu của Chi cục hải quan cửa khẩu Lao Bảo số 2560/TBT ngày 17/12/2011 tiền thuế phải nộp 3.246.503.317đ.

Công ty đã nộp đủ số tiền này được chứng minh bằng văn bản số 1661/TCHQ.TXNL ngày 20/02/2014 của Tổng Cục hải quan gửi cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an, văn bản này nêu rõ “Doanh nghiệp Ngọc Hưng đã nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu ngày 17/01/2012 số tiền 3.246.503.317đ theo tờ khai nhập khẩu số 1505/NK/KD/B033 ngày 17/12/2011 và chứng từ ghi số thuế phải thu 2560/TBT ngày 17/12/2011 của cơ quan hải quan là đúng quy định pháp luật”.

Theo quy định của Luật quản lý thuế và khoản 1 Điều 68 Luật ngân sách nhà nước quy định hoàn trả tiền thuế cho Doanh nghiệp khi nộp ngân sách không đúng, trường hợp nộp thiếu thì truy thu, trường hợp Doanh nghiệp tái xuất khẩu thì hoàn thuế nhập khẩu đã nộp thuế theo quy định Luật thuế.

- Từ đó Tổng cục hải quan từ chối chuyển cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an số tiền mà Doanh nghiệp Ngọc Hưng đã nộp thuế nhập khẩu, điều này khẳng định lô hàng nhập khẩu nộp thuế ngân sách nhà nước là đúng pháp luật thì không thể quy buộc hàng hóa là buôn lậu được. Không có một nước nào trên thế giới kể cả Việt Nam khi hàng hóa không cấm nhập cấm xuất và đã đóng thuế nhập khẩu hợp pháp lại bị coi là buôn lậu để từ đó “Thuế thì ngân sách nhà nước nhận” hàng hóa thì tịch thu xung công quỹ thật sự bất công đối với Doanh nghiệp.

b/ Đối với thuế xuất khẩu:

Doanh nghiệp Ngọc Hưng đã có tờ khai hàng hóa xuất khẩu số 849/XK/KD-C32D ngày 19/12/2011, theo đó đã khai trị giá hàng xuất khẩu là 33.292.524.000đ Chi cục hải quan Cảng Cửa Việt đã phát hành chứng từ ghi số thuế phải thu số 831/TBT ngày 19/12/2011 với số tiền 4.673.083.000đ và ấn định thời gian 30 ngày đến 29/12/2011 Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp số tiền thuế nêu trên. Trong trường hợp trong thời hạn nêu trên Doanh nghiệp đã xuất khẩu lô gỗ ra nước ngoài thì làm thủ tục miễn thuế đối với số tiền ấn định này vì “Hàng hóa lô gỗ trắc xuất khẩu tại thời điểm này được miễn thuế xuất khẩu”. Trong khi đang xuất khẩu qua Cảng Đà Nẵng thì lô hàng bị giữ cho đến nay nên chưa làm thủ tục miễn thuế xuất khẩu.

Như vậy, kết luận chắc chắn rằng việc nhập khẩu gỗ và xuất khẩu gỗ của Doanh nghiệp Ngọc Hưng không gây thiệt hại gì về thuế theo quy định của Luật thuế tại thời điểm Doanh nghiệp mở tờ khai hải quan nên cũng không cấu thành tội buôn lậu đối với lô hàng gỗ trắc.

Thứ 4: Điều tra ban đầu của cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an (Cục điều tra án kinh tế) C46 Bộ Công an đã ban hành hai văn bản xác định hành vi nhập khẩu và xuất khẩu lô gỗ của Công ty Ngọc Hưng không cấu thành tội buôn lậu, cụ thể:

- Văn bản số 231/C46-P10 gửi Tổng Cục hải quan do Thiếu Tướng Cục Trưởng Nguyễn Đức Thịnh ký.

- Văn bản số 1237/C46-P10 ngày 31/7/2015 gửi cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an (C44) tái khẳng định vi phạm Công ty Ngọc Hưng nếu có khi khai báo không đúng tên hàng, khối lượng hàng hóa nhập và xuất chỉ là vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan sẽ phải chịu chế tài xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 23 Luật hải quan.

Thứ 5: Kháng nghị của VKSND cấp cao từ nhận định “Công ty Ngọc Hưng làm giả và cung cấp không đúng sự thật các tài liệu, giấy chứng nhận kiểm định thực vật của trạm kiểm định thực vật Lao Bảo HĐMB gỗ 35/2011/HĐKT, vận đơn (Invoice) hóa đơn vận tải đường bộ (Brul of track) phí đóng gói hàng (packing list) lý lịch gỗ đều không đúng sự thật trái pháp luật Việt Nam”. Công ty Ngọc Hưng đã làm giả các tài liệu này, quy kết của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng là không có căn cứ pháp lý. Bởi lẽ:

a/ VKS cấp cao kết luận Công ty Ngọc Hưng làm giả các tài liệu khi không có quyết định khởi tố vụ án về tội “Làm giả tài liệu, con dấu cơ quan tổ chức” theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Và khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án kết luận “Công ty Ngọc Hưng phạm tội làm giả con dấu tài liệu tổ chức” là không có căn cứ pháp lý.

b/ Các loại giấy tờ nêu trên đều không do Công ty Ngọc Hưng làm ra mà do đối tác cung cấp, cụ thể là:

- Giấy CNKD thực vật do trạm kiểm dịch lao Bảo cấp, nó chỉ có ý nghĩa lô hàng nhập khẩu không có dịch mầm móng dịch bệnh không phải do Công ty Ngọc hưng tự làm.

- Các hóa đơn vận tải đường bộ, phiếu đơn giá, vận đơn lý lịch gỗ do đối tác của Lào bên xuất khẩu cung cấp và theo quy định của pháp luật Việt Nam Doanh nghiệp được nợ trong thời hạn 30 ngày khi làm tờ khai nhập khẩu, nên đó không là điều kiện quyết định cho phép thông quan lô hàng. Việc thông quan lô hàng chỉ cần bảo đảm có tờ khai hải quan, giấy kiểm dịch trạm Lao Bảo và hợp đồng giữa hai bên là đủ. Hiện nay theo chủ trương Chính phủ để đơn giản hóa thủ tục hải quan, phù hợp với hội nhập hải quan các nước Asean và các nước khác thì hồ sơ hải quan nhập khẩu hàng hóa trong đó có mặt hàng gỗ chỉ cần:

1/ Tờ khai hải quan.

2/ Hóa đơn thương mại.

Là hàng hóa được thông quan.

Cáo buộc của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng không đúng với thực tế vụ án và ngược chính sách cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan của chính phủ.

Thứ 6: Tài liệu điều tra không có căn cứ để xác định Công ty Ngọc Hưng khai báo sai chủng loại và số lượng gỗ? Cụ thể là:

Số lượng gỗ: Kết quả điều tra và tài liệu có 03 kết quả khác nhau:

1/ Công ty Ngọc Hưng khai nhập và xuất 535,8m3 gỗ trắc.

2/ Kết luận giám định số 151/STTNSV ngày 12/03/2012 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật kết luận 431,598m3 gỗ trắc và 21,506.3 gỗ giáng hương tổng cộng là 453,104m3.

3/ Kết luận giám định số 783/STTNSV ngày 26/11/202 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật:

- Gỗ trắc: 590,843m3.

- Gỗ giáng hương: 23,82m3.

Tổng cộng: 614,663m3.

Như vậy tổng khối lượng gỗ khác nhau, trong khi vật chứng không còn để tiến hành đo đạc và giám định lại. Nên không có căn cứ pháp lý nào để xác định Công ty Ngọc Hưng khai báo sai khối lượng gỗ trắc nhập khẩu và xuất khẩu.

Chủng loại gỗ:

Giữa tờ khai hải quan nhập và xuất đều giống nhau về chủng loại gỗ gồm gỗ trắc tròn, gỗ trắc xẻ và gỗ trắc tận dụng gốc, cành, ngọn có lẫn một phần các sản phẩm gỗ chưa hoàn thiện nhưng đã được kê khai trong tổng khối lượng của tờ khai hải quan, điều này chỉ có dấu hiệu vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 23 Luật hải quan như văn bản trả của Cục điều tra án kinh tế Bộ Công an gửi Tổng Cục hải quan đã nói rõ nó không cấu thành tội buôn lậu.

Thứ 7: Có sự mâu thuẩn trong kháng nghị của VKSNS cấp cao, cụ thể là:

Án sơ thẩm của TAND TP.Đà Nẵng xét xử 03 công chức hải quan tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở đánh giá bị cáo Liệu và Dung có hành vi buôn lậu 21,506m3 gỗ giáng hương. Sau khi án sơ thẩm tuyên VKSND TP.Đà Nẵng và VKSND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kết quả bản án tuyên nên không kháng nghị đối với phần này chỉ có 03 bị cáo kháng cáo kêu oan, bị cáo Đỗ Danh Thắng rút kháng cáo phần bản án liên quan đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã thừa nhận án sơ thẩm xử là đúng, nên không kháng nghị. Nhưng lại kháng nghị chuyển khung hình phạt và tăng án đối với bị cáo Liệu và Dung về số lượng, chủng loại hàng hóa (Gỗ trắc) là khập khểnh không có cơ sở pháp lý.

Khi chuyển khung hình phạt đối với tội danh buôn lậu bắt buộc phải chuyển khung hình phạt đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, VKSND cấp cao chấp nhận khung hình phạt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng lại kháng nghị khung hình phạt tội buôn lậu là mâu thuẩn với chính mình.

Từ 07 lý do trên đủ căn cứ pháp lý vững chắc để đề nghị HĐXX bác kháng nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về việc quy buộc hai bị cáo Liệu và Dung buôn lậu gỗ trắc. Án sơ thẩm của TAND TP.Đà Nẵng xét xử về phần này là đúng, nên đề nghị HĐXX giữ y.

Đề nghị HĐXX tòa án cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung về việc “không phạm tội buôn lậu 21,506m3 gỗ giáng hương”. Bởi các lý do sau đây:

Thứ 1: Tài liệu điều tra có các tài liệu sau đây ghi nhận có gỗ giáng hương trong lô hàng nhập khẩu và xuất khẩu.

1/ Biên bản khám xét nơi cất giấu tài liệu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan số 01/BB-HC4 ngày 14/03/2012 tại Chi cục hải quan Cảng Đà Nẵng ghi nhận “Gỗ xẻ nghi vấn không phải gỗ trắc” gỗ tròn, nghi không phải gỗ trắc, gỗ xẻ loại nhỏ nghi không phải gỗ trắc.

2/ Biên bản kết luận giám định số 151 ngày 12/03/2012 của Viện sinh thái tài nguyên sinh vật ghi nhận có 21,506 gỗ thuộc loại giáng hương, không ghi nhận các loại gỗ nghi không phải là gỗ trắc theo biên bản số 01/BB-HC4 ngày 14/03/2012.

3/ Kết luận giám định số 783/STTNSV ngày 26/11/2012 của Viện sinh thái tài nguyên sinh vật kết luận 23,828m3 gỗ giáng hương có trong 19.662 thanh hộp.

Như vậy tài liệu ghi nhận có gỗ giáng hương trong lô hàng nhập khẩu và xuất khẩu theo tờ khai hải quan của Công ty Ngọc Hưng có sự khác nhau cơ bản như sau:

1/ Khác nhau về khối lượng:

- Biên bản số 01 không xác định khối lượng.

- Biên bản kết luận giám định số 151 xác định khối lượng 21,506m3.

- Kết luận giám định số 783 xác định khối lượng 23,828m3

Vậy chúng ta tin vào khối lượng nào?

2/ Về đặc tính gỗ được kết luận là gỗ giáng hương.

- Biên bản số 01 ghi 03 loại: Gỗ xẻ, gỗ tròn và gỗ xẻ loại nhỏ (Nghi không phải gỗ trắc).

- Biên bản kết luận giám định số 151 cũng ghi 21,506m3 gỗ giáng hương không thuộc loại nào (Xẻ, tròn, hay xẻ nhỏ).

- Kết luận giám định số 783 ghi 23,828m3 gỗ giáng hương có trong 19.662 thanh hộp.

Vậy cơ sở nào để chúng ta tin tưởng là có gỗ giáng hương trong lô hàng nhập, xuất của Công ty Ngọc Hưng.

Với hai cơ sở nêu trên, không có căn cứ pháp lý để chúng ta xác định chính xác chỉ còn cách là căn cứ vào hồ sơ giám định gỗ và vật chứng dùng để giám định mới kết luận được có hay không có gỗ giáng hương. Kết quả điều tra và thẩm vấn tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm cho thấy việc này như mò kim đáy biển. Bởi các lý do sau đây:

Thứ 1: Tại biên bản lấy mẫu chứng nhận hàng biên bản không số BB/HC13 ngày 13/01/2012 tại Cảng Tiên Sa Đà Nẵng của Đội kiểm soát chống buôn lậu khu vực miền Trung đã tiến hành lấy mẫu giám định ghi nhận:

Tổng số lấy mẫu 85 mẫu được giao cho các đơn vị sau đây giữ:

1/ Doanh nghiệp Ngọc Hưng 12 mẫu.

2/ Chi cục hải quan Cảng Đà Nẵng 12 mẫu.

3/ Giám định 16 mẫu.

4/ Cục điều tra chống buôn lậu Tổng Cục hải quan 45 mẫu.

Thẩm vấn tại tòa qua bản ảnh đã cho thấy Công ty Ngọc Hưng không được nhận 12 mẫu để giữ, Chi cục hải quan Cảng Đà Nẵng có nhận nhưng không biết để đâu, giám định có nhận để giám định nhưng hiện tại mẫu vật không hoàn trả theo biên bản kết luận giám định số 151/STTNSV ngày 12/03/2012 của của Viện sinh thái tài nguyên sinh vật. Cục điều tra chống buôn lậu không biết mẫu hiện tại nằm ở đâu.

Hồ sơ không có tài liệu sau khi khởi tố vụ án của Cục điều tra chống buôn lậu và khởi tố bị can của cơ quan cảnh sát điều tra (C44) Bộ Công an có quyết định thu giữ 85 mẫu vật dùng để giám định chủng loại gỗ hay không?.

Thứ 2: Theo bản ảnh lấy mẫu tại Cảng Tiên Sa thì đối với vật chứng sau khi lấy đi 85 mẫu thì phần còn lại của vật chứng giao cho đơn vị nào bảo quản (Không thể hiện) theo bị cáo Nhi khai là bỏ lại trong các container nay có còn hay không?

Các bị cáo tại tòa đều xác định là không có gỗ giáng hương, do vậy về nguyên tắc luật pháp mẫu vật chứng dùng làm giám định, phần vật chứng còn lại để dùng làm đối chiếu so sánh phải được phải được lưu giữ bảo quản chuyển cho cơ quan cuối cùng các quy trình tố tụng hình sự là tòa án xem xét theo kết luận của họp liên ngành. Nhưng người tiến hành tố tụng không hiểu lý do gì đã phi tang các vật chứng này bằng các hành vi:

1/ Không thu hồi các mẫu vật dùng để giám định.

2/ Bán mẫu vật còn lại dùng để so sánh đối chiếu.

Họ đã làm khó cho HĐXX, kiểm sát  viên và luật sư đang ngồi trong Hội trường xét xử này thì chúng ta liệu có đủ niềm tin và cơ sở pháp lý để kết luận là có gỗ giáng hương hay không? Chắc chắn là không.

 

TÓM LẠI: - KÍNH THƯA HĐXX TAND CẤP CAO.

                   - ĐẠI DIỆN VKSND CẤP CAO.

1/ Vụ án đến đây là đã quá rõ ràng để chúng ta đủ cơ sở pháp lý tuyên bố bị cáo Trương Huy Liệu và Trần Thị Dung không phạm tội buôn lậu gỗ trắc như bản án sơ thẩm TAND TP.Đà Nẵng đã tuyên, đề nghị HĐXX bác kháng nghị của VKS cấp cao tại Đà Nẵng và nội dung kháng nghị thay đổi khung hình phạt, tăng hình phạt và tịch thu số tiền bán vật chứng giữ nguyên bản án sơ thẩm của TAND TP.Đà Nẵng về phần này.

2/ Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Dung, Trương Huy Liệu sửa án sơ thẩm theo đó tuyên bố hai bị cáo không phạm tội buôn lậu 21,506m3 gỗ giáng hương. Đồng thời tiếp tục hoàn trả cho Công ty Ngọc Hưng số tiền 1.191.400.000đ mà án sơ thẩm tịch thu xung công quỹ nhà nước vì đã chứng minh không có gỗ giáng hương lẫn trong gỗ trắc xuất nhập khẩu.

3/ Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Lý Nhi, Lê Xuân Thành sửa án sơ thẩm theo đó tuyên bố  hai bị cáo không phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Khôi phục các quyền lợi hợp pháp cho các bị cáo Liệu, Dung, Nhi và Thành theo quy định pháp luật.

Kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét lại phần bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với ông Đỗ Danh Thắng theo hướng không phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Luật sư tin tưởng vào phán quyết cuối cùng của HĐXX, trên tin thần chủ trương đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta trong cải cách tư pháp thể hiện qua chỉ đạo xuyên suốt đối với ngành tòa án của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TAND tối cao “Không đủ chứng cứ thì tuyên không phạm tội”.

Trân trọng.

Nơi nhận:

- Như trên.

- Các bị cáo.

- Lưu HSBC.

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VẠN LÝ

(Đã ký)

LS. Nguyễn Trường Thành